Hiển thị các bài đăng có nhãn Thanh Chương. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thanh Chương. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 24 tháng 7, 2012


Hòa Bình nổi tiếng xa gần với món thịt lợn muối chua dân dã mà không kém phần độc đáo của người Mường ở huyện Kim Bôi. Thịt chua ăn cùng lá sung, xạ đen, lá mít non, lá đinh lăng hoặc lá vả… chấm nước mắm hay tương ớt.


Chỉ từ những lát măng trắng mỡ màng, xen lẫn với những quả ớt nhỏ xíu, cay xé lưỡi, thơm hương móc mật thôi cũng đủ làm nên hương vị thật đặc biệt cho món măng ớt chua cay xứ Lạng rồi.


Chỉ với những nguyên liệu đơn giản: cá tươi, muối hột và thính, người dân huyện Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Phúc) đã tạo ra món cá thính chua nức tiếng gần xa. Cá thính chua ngon có mùi thơm nức của thính gạo, vị chua chua của thính lên men và đặc biệt, thịt cá có màu hồng.


Người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ lại rất ưa thích món dưa chua cải bẹ. Nguyên liệu chính là các loại rau, củ quả, muối ăn, đường và giấm. Món dưa muối chua có thể được ăn như những món rau trên mâm cơm thường nhật.


Ở một số vùng miền Trung Việt Nam (như Nghệ An), người dân sử dụng xơ và múi mít xanh để làm món nhút, một dạng gần giống với dưa muối chua. Trong đó, nổi tiếng nhất là nhút Thanh Chương.


Tôm chua Huế quả là thứ đặc sản “không nơi nào có được”. Nhiều địa phương có thể làm được tôm chua, nhưng chỉ ở Huế, tôm chua mới ngon đến vậy. Món ăn này có vị ngọt bùi của tôm, béo của thịt, cay, thơm của riềng, tỏi, ớt, chua của khế, chát của vả, hương thơm của rau… Tất cả dồn lên đầu lưỡi một hương vị tuyệt vời, khó có thể tả xiết.


Dưa bồn bồn có thể biến tấu thành nhiều món ăn kèm với cơm nóng. Dưa chua bồn bồn không chỉ được thưởng thức tại chỗ mà nó còn trở thành những món quà ý nghĩa mà du khách mua về tặng người thân trên khắp mọi miền đất nước./.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Sáu, 20 tháng 7, 2012


Hòa Bình nổi tiếng xa gần với món thịt lợn muối chua dân dã mà không kém phần độc đáo của người Mường ở huyện Kim Bôi. Thịt chua ăn cùng lá sung, xạ đen, lá mít non, lá đinh lăng hoặc lá vả… chấm nước mắm hay tương ớt.


Chỉ từ những lát măng trắng mỡ màng, xen lẫn với những quả ớt nhỏ xíu, cay xé lưỡi, thơm hương móc mật thôi cũng đủ làm nên hương vị thật đặc biệt cho món măng ớt chua cay xứ Lạng rồi.


Lá sắn muối Phú Thọ.


Chỉ với những nguyên liệu đơn giản: cá tươi, muối hột và thính, người dân huyện Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Phúc) đã tạo ra món cá thính chua nức tiếng gần xa. Cá thính chua ngon có mùi thơm nức của thính gạo, vị chua chua của thính lên men và đặc biệt, thịt cá có màu hồng.


Người dân vùng Đồng bằng Bắc Bộ lại rất ưa thích món dưa chua cải bẹ. Nguyên liệu chính là các loại rau, củ quả, muối ăn, đường và giấm. Món dưa muối chua có thể được ăn như những món rau trên mâm cơm thường nhật.


Sung muối rất hợp với món ốc luộc.


Ở một số vùng miền Trung Việt Nam (như Nghệ An), người dân sử dụng xơ và múi mít xanh để làm món nhút, một dạng gần giống với dưa muối chua. Trong đó, nổi tiếng nhất là nhút Thanh Chương.


Món nhút ăn giòn, đượm vị mặn của muối, cay của ớt, dậy mùi thơm của mít, thanh ngọt của mía đường… “quyện” một vị ngon rất đặc biệt. Món ăn dân dã này đã trở thành “thương hiệu” của dải đất miền Trung nghèo khó nhưng kiên cường.


6. Tôm chua Huế


Dưa chua bồn bồn là món đặc sản nổi tiếng của đất mũi Cà Mau. Bồn bồn sau khi hái về, thân, lá, gốc sẽ được sơ chế sạch sẽ, dùng dao nhọn bén chẻ làm hai hoặc tư tùy độ lớn của ruột bồn bồn. Sắp bồn bồn vào hũ, pha muối, đường vào nước vo gạo. Sau đó đổ hỗn hợp này ngập kín bồn bồn rồi đậy chặt hũ lại khoảng vài ngày là ăn được.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012


Nhiều thế hệ người dân ven bờ sông Lam đã lớn lên bằng những con hến bé nhỏ


Phải mất mấy ngày nài nỉ vợ chồng anh Ngũ Ánh Hồng, chị Nguyễn Thị Đào (khối Lam Sơn, thị trấn Nam Đàn, Nghệ An) mới đồng ý cho tôi lên thuyền “đi hến” bởi anh ngại “cái nghề trên nước, dưới nắng vất vả cô chịu không nổi”. Nhà cách sông chừng 500m, ngay sau khi bán hết hến ruột đãi từ tờ mờ sáng, anh Hồng chuẩn bị rổ, lưới, chị Đào đơm cơm vào cái ăng-gô to tướng kèm theo bát canh vặt nấu hến và mấy quả cà pháo cùng miếng trứng rán. “Đây là bữa trưa của cả hai vợ chồng. Đi từ giờ, phải đến 3-4h chiều mới về. Hôm nay ta ngược lên phía Thanh Khai (huyện Thanh Chương)”, chị Đào cho biết.


Thuyền chạy được chừng 30 phút, sợi dây thừng đã căng hết cỡ, nghe chừng lưới đã đầy, anh Hồng tắt máy, chạy lên đầu thuyền phụ vợ kéo lên. “Làm cái nghề ni, bắp tay đàn bà cũng to như tay đàn ông vì ngày mô cũng “thể dục” như ri cả”, chị Đào cười. Bàn tay thoăn thoắt kéo sợi dây thừng, giữa dòng nước lờ đờ đục, bỗng quặn lên màu bùn đất, chiếc lưới to cỡ chiếc bì tải, gắn một đầu vào thanh sắt có răng cưa đã được kéo lên thuyền. Những con hến bằng đầu ngón tay trỏ được đổ ra khoang, chiếc vỏ cứng lóng lánh dưới nắng mặt trời. Vuốt giọt mồ hôi trên sống mũi, chị Đào cười mãn nguyện, chuyến này chắc cũng được cỡ 5 kg.


Khoảng 30 năm về trước, làng Lam Sơn nhộn nhịp suốt ngày. Người dân túa ra sông từ tờ mờ sáng, trẻ con, người lớn, người già cổ quàng dây nhủi lầm lũi đến tận non trưa mới trở về. Nhưng giờ, người bám trụ với nghề cào hến ở Lam Sơn chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Phương tiện làm nghề được cải tiến liên tục, người dân sắm thuyền máy, hến được cào ồ ạt bằng lưới chuyện dụng cộng với việc lòng sông bị khai thác cát nên con hến ngày càng hiếm đi. Đó cùng là lúc nhiều người dân không còn mặn mà với nghề này nữa.


Tất cả các bộ phận của hến đều kiếm ra tiền. Ruột hến dùng nấu canh, xào dưa chuột xúc bánh đa hay nấu cháo, đổ bánh đúc. Nước hến ngọt mát nấu canh hay để uống thay nước sôi. Đến vỏ hến cũng được bán để trộn làm thức ăn nuôi vịt, gà. Nghề đi hến có quanh năm nhưng nhiều nhất từ ra Giêng tới tháng Tám mùa lũ. Cũng bởi vậy, nghề đi hến chẳng bao giờ phải lo “thất nghiệp” thế nhưng càng ngày càng ít người theo cái nghề này.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012


Đảo Trường Sa Lớn hiện có hàng chục đứa trẻ của nhiều hộ gia đình đang sinh sống, học tập.


Cũng giống như ở đất liền, trẻ em đảo Trường Sa có khu vui chơi gồm mô hình nhà, xích đu, đu quay thú nhún... Ngôi nhà với chiếc cầu trượt được bọn trẻ mê tít. Chúng coi đó như chiếc tàu, rồi chia nhau đứa làm thuyền trưởng, đứa làm thủy thủ. Trẻ ở Trường Sa thân thiết như anh em một nhà, và bố mẹ của từng đứa gọi tất cả là con.


Bé Nguyễn Ngọc Trường Xuân (trái) được sinh bằng phương pháp đẻ mổ đầu tiên trên đảo Trường Sa nay đã gần 1 tuổi. Xuân là con chị Nguyễn Thị Thanh Thúy và anh Nguyễn Tấn Thi - đầu bếp cho các chiến sĩ trên đảo. Tên của cô bé ghép từ tên Trường Sa lẫn tên của hai bác sĩ Nguyễn Hà Ngọc, Nguyễn Xuân Lãn - người thực hiện ca mổ đẻ đầu tiên trên đảo năm 2011.


Bé Đặng Phương Nam, con anh Đặng Thanh Chương và chị Bùi Thị Nhung cũng sắp sinh nhật lần thứ nhất. Đây là hai trong số hàng chục trẻ em được sinh ra và lớn lên ở đảo Trường Sa.


Lớp học trên đảo vì thế cũng ngày càng đông đúc. Hàng chục cháu nhỏ được ghép chung một lớp với nhiều cấp học khác nhau. Hàng ngày, trong trang phục lính Hải quân, những đứa trẻ tung tăng đến lớp để học văn hóa.


Bên cạnh con chữ, đạo làm người, bài học xuyên suốt năm tháng tuổi thơ của các bé là "Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam". Do được dạy về tiết kiệm nước nên bé nào cũng biết khóa vòi nước khi đã lấy đủ và ngồi tắm trong chậu để tận dụng nước tưới cây.


Sau giờ học trên lớp, những đứa trẻ lại túm tụm ngồi nhà đọc sách, truyện tranh.


Hoặc khi rảnh rỗi thì đội mũ, vượt cái nắng đến chơi cùng chiễn sĩ. Những đứa trẻ ở đảo tâm sự, rất yêu quý các chú bộ đội bởi các chú luôn cho quà, dạy học và dạy hát.


Những đứa trẻ trên đảo Trường Sa rất háo hức mỗi khi được biết có đoàn khách ra thăm. Bé Đặng Bùi Phương Anh cho biết, lần nào cũng thế, khi bộ đội báo thức để đón đoàn lúc 4h sáng, bé cùng các bạn cũng thức dậy, nô nức chuẩn bị quần áo để ra cầu cảng đón khách từ đất liền ra thăm. "Chúng cháu rất vui và không thể ngủ được", Phương Anh bẽn lẽn cười.


Không chỉ chăm chỉ học hành, trẻ ở Trường Sa còn thường xuyên dâng hương tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh để bảo vệ đảo.


Nguyễn Anh Đức, học sinh lớp 3 cho biết, lớn lên em muốn làm chiến sĩ Hải quân, ngày đêm canh giữ biển trời Tổ quốc, giống như những chú bộ đội nơi em sống đang làm.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011


Ở miền Trung, món nhút mít nổi tiếng nhất là tại Thanh Chương. Do vậy mới có câu “Nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn”. Phương pháp làm nhút mít ở Thanh Chương cũng không khác cách làm nhút ở nhiều vùng quê khác ở miền Trung nhưng có lẽ vì Thanh Chương là đất trồng mít nên có phần nổi tiếng hơn.


Để làm nhút mít người dân thường tận dụng xơ mít chín hoặc dùng mít non để muối. Thường vào tháng ba âm lịch khi trái mít to bằng cái bát tô và khi hạt mít còn chưa hình thành vỏ lụa thì người ta bắt đầu muối mít. Mít được gọt sạch vỏ, thái nhỏ. Để sợi mít trắng mọi người hay thái vào chậu nước gạo. Cái nắng gay gắt của miền Trung đã giúp cho những nong sợi mít se lại. Khi sợi khô hơn, người ta đem trộn muối tinh với mít với tỉ lệ vừa phải. Cho muối quá tay thì nhút sẽ mặn. Cho nhạt quá thì nhút mau lên men, chóng hỏng.


Nguyên liệu làm nhút được bán nhiều ở các phiên chợ quê.


Người dân hay gọi đùa nhút mít là thịt gà xé.


Còn làm nhút mít từ xơ mít thì đơn giản hơn. Cách làm này giúp người ta tận dụng được xơ. Xơ mít được tách khỏi vỏ, được trộn với một nhúm muối trắng. Trộn thật đều, được ép chặt trong tô hoặc lọ.


Ăn nhút mít không thể thiếu bát chẻo làm nước chấm.

Xem bài viết đầy đủ

Cùng Chia Sẻ © 2013 - Nghe Đọc Truyện Online