Khu vực “hậu cung” nằm phía bên trong cùng
Du khách chỉ có thể làm lễ phía bên ngoài
Chùa Tháp Phổ Minh ở Nam Định
Chùa Thánh Chúa ở Hà Nội
Nơi thờ Vua Trần
Phía trong cùng là bài vị (hậu cung)
Sống Là Cùng Chia Sẻ
Khu vực “hậu cung” nằm phía bên trong cùng
Du khách chỉ có thể làm lễ phía bên ngoài
Chùa Tháp Phổ Minh ở Nam Định
Chùa Thánh Chúa ở Hà Nội
Nơi thờ Vua Trần
Phía trong cùng là bài vị (hậu cung)
Bánh khẩu sli - Cao Bằng
Bánh đậu xanh - Hải Dương
Bánh gio, bánh tro - Bắc Giang
Bánh cáy - Thái Bình
Bánh cốm - Hà Nội
Bánh gai - Nam Định
Bánh tráng xoài - Nha Trang
Bánh khô mè - Cẩm Lệ, Quảng Nam
Bánh da lợn - Hội An
Bánh bò - Sài Gòn
Bánh pía - Sóc Trăng
Bánh ít - Bình Định
Bánh rế - Phan Thiết
Bánh ú - Nam Bộ
Bánh lá mơ - Miền Tây
Theo các chuyên gia về cổ vật và sử học thì quả chuông đồng có niên đại sớm nhất Việt Nam hiện nay là quả chuông đồng được nhân dân thôn My Dương, xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây (cũ) tìm thấy ở độ sâu 3,5m năm 1986 trong một lần đào mương khai thông hệ thống thủy lợi của thôn.
Chuông Vân Bản có niên đại thời Trần, được làm vào thế kỷ XIII có số phận ly kỳ nhất trong các chuông cổ ở Việt Nam. Tương truyền, hồng chung Vân Bản đã nhiều lần tuyệt tích dưới đáy biển rồi lại tự tìm đường trở lại. Tính ra thời gian chuông nằm dưới đáy biển còn nhiều hơn thời gian chuông được treo tại chùa.
Cho đến nay, kỷ lục “Đại hồng chung lớn nhất Việt Nam" được xác lập bởi quả chuông đồng nặng 36 tấn đặt tại chùa Bái Đính (Ninh Bình).
Lớn thứ hai trong “bảng xếp hạng” là quả chuông ở chùa Cổ Lễ (Nam Định) thuộc xã Trực Nghĩa, huyện Nam Ninh. Quả chuông được đặt giữa sân chùa, chuông cao 4,2m, đường kính 2,2m, nặng 9 tấn, do Hòa thượng Thích Thế Long cho đúc vào năm 1936.
Chuông đồng bị khoan đỉnh được đúc dưới thời vua Quang Trung, tuy không phải chuông lớn, nhưng có điểm đặc biệt là khi đánh lên lại có tiếng ngân vang xa kỳ lạ.
Đại hồng chung chùa Thiên Mụ được đúc từ thời Chúa Nguyễn Phúc Chu (năm 1710) để cúng cho ngôi Quốc tự, cao 2,5m, đường kính miệng 1,4m, nặng hơn 2.000kg, hiện đặt tại chùa Thiên Mụ. Trên chuông có khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu “chú nguyện mưa thuận gió hoà, quốc thái dân an”. Chuông đã trở thành bảo vật của Phật giáo Thuận Hoá đã được lập hồ sơ để các cấp có thẩm quyền xem xét và đề nghị công nhận là “Bảo vật quốc gia”.
Những bể trữ nước ăn của đồng bào Mông trên vùng cao nguyên đá Đồng Văn (Hà Giang). Trên cao nguyên này nước ngọt vô cùng quý giá. Vào mùa khô đồng bào các dân tộc phải đi gùi nước ăn xa hàng cây số.
Bề mặt đường 32 (Hà Nội) lênh láng nước và bùn đất khi chưa được cải tạo. Con đường này từng được người dân đặt tên là "con đường đau khổ".
Hình bóng một người câu cá in trên mặt nước vào thời điểm đang diễn ra nhật thực toàn phần dài nhất thế kỉ 21, với thời gian kéo dài tối đa lên đến 6 phút 39 giây. Trong ảnh là cảnh quan sát nhật thực tại Nam Định - Việt Nam.
Các em nhỏ của xóm vạn đò Huế đang vui chơi với nước tại khu chung cư 3 tầng, đây là nơi ở mới của người dân vạn đò sau khi có cuộc di dân lên bờ lịch sử vào năm 2009 của TP Huế.
Cảnh lấy nước ngọt ở phá Tam Giang (Huế).
Một người dân tộc Hà Nhì (Y Tý, Lào Cai) đang uống nước đựng trong thân cây nứa.
Nước lớn tràn qua một con đập tại Bắc Kạn. Mưa lớn đã gây ra vụ lở đất kinh hoàng tại bản Khên Lền vào đêm 4/7/2008 (Pắc Nặm - Bắc Kạn) làm 10 người chết.
Một người đi đường bị đổ nước vào người trong dịp tết Bunpimay của Lào.
Các con lạch nước thải tại phố Thanh Nhàn - Hà Nội vốn đã rất ô nhiễm nhưng vẫn thường bị rác khỏa lấp làm thu hẹp dòng chảy. Trong ảnh là tấm biển của người dân cảnh báo mọi người có ý thức bảo vệ môi trường.
Cảnh sinh hoạt thường thấy trên sông Hương (Huế), nơi có xóm vạn đò. Ảnh chụp vào thời điểm 2009 trước khi người dân ở đây được chuyển lên bờ.
Thuyền nan là vật dụng gắn liền với đời sống của ngư dân vùng biển đảo Quảng Ninh. Nhẹ và cơ động, thuyền nhỏ dùng để di chuyển, thuyền lớn hơn để vận chuyển hàng hóa, đánh bắt gần bờ, thậm chí còn là nơi sinh sống của cả gia đình
Thôn Hưng Học (xã Nam Hòa) được xem như cái nôi của nghề đan thuyền đảo Hà Nam. Không khó để bắt gặp hàng trăm chiếc thuyền nằm phơi trên khắp đường làng, ngõ xóm. Tuy có giảm sút so với nhiều năm trước, nhưng hiện nay, cả thôn vẫn có khoảng 250 hộ đang làm nghề... đan thuyền
Chiếc thuyền tốt được người thợ thủ công chăm chút từ khâu chọn tre, chẻ tre đến đan mê (phần nền của thuyền). Ông Hoàng Văn Choảng, nhà có ba thế hệ làm nghề, cho biết khâu này không phức tạp nhưng đòi hỏi bàn tay khéo léo và sự cẩn thận cao, một người trung bình có thể đan được 3 - 4 mê/ngày
Để tạo hình thuyền, người thợ cho mê vào một chiếc khuôn (hố) và cạp các mép, sau đó cố định lại bằng dây thép. Việc cạp thuyền thường được giao cho những người có kinh nghiệm, sao cho chiếc thuyền cân đối và chắc chắn nhất
Muốn giữ cho nan chắc và khít hoàn toàn, người Hưng Học có một bí quyết riêng độc đáo: phết một lớp phân trâu trộn mùn cưa lên toàn bộ cốt thuyền
Sau khi phơi lần đầu và sơn nhựa đường 3 - 4 lần lên cả hai mặt, một chiếc thuyền nan đã dần hình thành. Tính đến khi hạ thủy mỗi chiếc thuyền có thể “dầm sương dãi nắng” đến 4 - 5 tháng
Để thuyền thêm vững chãi, chịu được sóng lớn và có khoang, chỗ ngồi, người thợ thêm vào các xà và thang ngang
Tùy theo kích cỡ, thuyền nan Hưng Học có trọng tải từ 2 tạ đến 12 tấn, giá thành từ 1,2 triệu trở lên, có thể lắp mái chèo hay máy chân vịt tùy loại và có tuổi thọ tới gần chục năm
Lán thuyền của anh Phạm Văn Kiên trước kia có thể hạ thủy tới gần 300 chiếc/năm, ngoài khách trong tỉnh còn có khách ở Thái Bình, Nam Định... “Hai năm gần đây kinh tế khó khăn, khách mua giảm hẳn, có khi cả tháng chỉ được 2 - 3 chiếc cỡ nhỏ”, anh Kiên chia sẻ
“Thế hệ chúng tôi có mười người thì giờ chỉ còn 6 - 7 người làm nghề. Nhưng dù thế nào chúng tôi cũng vẫn giữ nghề để truyền lại cho con cháu”, ông Vũ Văn Hùng, gần 40 năm trong nghề, tâm sự. “Bao giờ hết cá mới hết làm thuyền nan”, ông nói vui
Trẻ em Hưng Học quen với nghề từ rất sớm, sân chơi của các em là những bãi thuyền nan rộng mênh mông ngay sau nhà
Thu nhập của ông Hoàng Văn Khanh (xã Hùng Thắng, TP.Hạ Long, Quảng Ninh) phụ thuộc hoàn toàn vào chiếc thuyền nan, được ông đến tận Hưng Học mua về