Hiển thị các bài đăng có nhãn Mark Twain. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mark Twain. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 8 tháng 10, 2012


“Phong cảnh có bàn ủi” trong truyện của Murakami đơn thuần hiểu theo nghĩa đen - một bức tranh phong cảnh được đặt bên cạnh một chiếc bàn ủi, nhưng tôi đã cố tình “mượn” nó để diễn giải theo nghĩa bóng: những hình ảnh đập vào mắt ở mỗi nơi chốn tôi đặt chân qua trên đất nước nhỏ bé này đều như được một chiếc bàn ủi của vị thần tạo hóa lẫn con người nơi đây “ủi” sẵn: từ những ngọn núi quanh năm phủ tuyết Titlis, ngôi làng nhỏ xanh mướt nằm dưới thung lũng Engelberg, thành phố thơ mộng bên hồ Lurcene, thủ đô và là di sản văn hóa thế giới UNESCO - Bern đến thành phố nhỏ Basel ở biên giới nằm sát Đức và Pháp đều hùng vĩ hoặc thơ mộng và bình yên đến nao lòng…


Vậy là chúng tôi đã trải qua 3 chặng bay và 2 chặng đổi tàu, tổng cộng mất khoảng 20 tiếng đồng hồ. Thế nhưng, khi bước ra từ cánh cửa tàu lửa, ngôi làng nhỏ bé nằm lọt thỏm giữa bốn bề núi dựng này xóa tan bao sự mệt nhọc. Ánh nắng rực rỡ cuối hè khiến cảnh vật càng thêm ấn tượng. Ở trên đỉnh những ngọn núi là tuyết trắng xóa, sáng lấp lóa dưới ánh mặt trời, ở dưới thung lũng là một ngôi làng nhỏ với những ngôi biệt thự được xây dựng ngay ngắn, trật tự. Tất cả được phủ bởi màu xanh ngắt của cây cỏ, rừng thông. Tobias Matter, vị giám đốc kinh doanh của Titlis Rotair dẫn đoàn đi tham quan một vòng thị trấn, bắt đầu từ con đường làng yên bình nhưng rực rỡ bởi những chậu hoa tươi trồng ở ban công hay cổng của những ngôi biệt thự rồi dẫn đến khu tu viện Biển Đức, nổi bật bởi kiến trúc Baroque của nhà nguyện. Phía sau tu viện có một nhà máy sản xuất phô mai, đặc sản nổi tiếng của vùng này…


Trái tim của Engelberg chính là ngọn núi tuyết Titlis với độ cao hơn 3.200m. Đỉnh của ngọn núi này được chinh phục lần đầu tiên vào năm 1744, cha Tu viện trưởng Plazidus đã từng viết rằng: “Ngọn núi Titlis rất cao và rất đáng sợ”. Năm 1912, hệ thống cáp treo sơ khai lần đầu tiên đã được khai thác lên đỉnh Titlis và phải 80 năm sau, hệ thống cáp treo xoay vòng hiện đại Rotair đầu tiên trên thế giới được khánh thành, việc đưa du khách lên đỉnh ngọn núi dễ dàng hơn bao giờ hết.


Ở Titlis không chỉ có những trò chơi trên tuyết hay khám phá hang băng vĩnh cửu mà còn có nhiều trò chơi cảm giác mạnh cho các chàng trai thích mạo hiểm như chơi dù lượn, chèo thuyền kayak trong lòng hồ, leo núi băng, trượt ván… Buổi chiều cùng ngày, khi quay xuống thị trấn Engelberg, tôi và hai người bạn đồng hành còn trải qua cuộc chinh phục 6 cấp độ từ dễ đến khó của trò chơi Rope Park (đi dây trong công viên). Lần đầu tiên được làm… Tarzan, tôi mới hiểu thế nào là cảm giác sung sướng khi đi cheo leo trên dây ở trên cao, đu dây từ cây này qua cây khác hay trượt dây xuống từ độ cao gần 20m…


Rất nhiều trò vui chơi, thám hiểm cho những du khách mê thể thao


Ở khu trung tâm của thành phố, Lucerne nổi bật với Tháp nước và cây cầu Chapel độc đáo. Cả hai công trình kiến trúc di sản này được xây dựng từ thế kỷ 13, được xem như là biểu tượng để “nhận diện” thành phố này trên các tấm postcard. Ngay từ thời Trung Cổ, Lucerne đã được mệnh danh là thành phố của những cây cầu và Chapel là cây cầu đẹp nhất. Đám cháy vào năm 1993 gần như đã phá hủy hoàn toàn cây cầu, bao gồm cả những bức tranh trưng bày trong đó, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, năm 1994, cây cầu gỗ này được phục dựng nguyên trạng. Dạo bộ trên cây cầu Chapel, ngắm những dãy hoa tươi khoe sắc đỏ quanh năm hay đàn thiên nga trắng bơi lội thản nhiên dưới hồ đem đến cho tôi một cảm giác bình yên khó tả và không muốn rời chân đi.


Một trong những biểu tượng khác của Lurcene là tượng đài “Sư tử đang hấp hối” nổi tiếng thế giới của nhà điêu khắc người Đan Mạch - Thorwaldsen, được tạc để tưởng nhớ những người lính đánh thuê Thụy Sĩ bị giết hại trong khi đang thực thi nhiệm vụ bảo vệ vua Pháp tại Tuleries vào năm 1792. Một anh bạn trong đoàn, vốn là người am hiểu sâu về lịch sử và văn hóa của châu Âu kể thêm cho chúng tôi những câu chuyện thú vị về sự dũng cảm, trung thành và danh dự của lính đánh thuê Thụy Sĩ khiến cảm nhận về bức tượng càng thêm sinh động và thú vị. Nhà văn Mỹ Mark Twain khi ghé qua đây đã từng viết một câu nổi tiếng về bức tượng này: “Một khối đá buồn bã và sầu cảm nhất của thế giới”.


Không chỉ có vậy, là một thành phố nổi tiếng về du lịch, Lucerne còn biết níu chân du khách với những liên hoan âm nhạc được tổ chức quanh năm, hệ thống shopping mall tiện nghi, đặc biệt là các cửa hiệu đồng hồ “chính hiệu Thụy Sĩ” với giá từ trên trời đến chỉ vài chục đô. Hệ thống bảo tàng cũng là một trong những niềm tự hào của thành phố. Ngay nhà ga trung tâm là Bảo tàng nghệ thuật với những bức tranh giá trị hàng triệu đô của Picasso, Erni đến Wagner. Nhưng có lẽ thú vị nhất là Bảo tàng Giao thông vận tải nằm cách trung tâm thành phố khoảng 5 km. Cái tên bảo tàng nghe có vẻ khô khan, nhưng đặt chân vào bên trong thì tôi không thể cưỡng lại được bước chân khám phá của mình, dù tôi vốn không phải là dân mê kỹ thuật hay công nghệ. Trong chuyến tham quan thú vị này, tôi còn được mời thử cảm giác bay của chiếc máy bay thô sơ từ thế kỷ 19.


Sau một ngày khám phá thành phố, chân mỏi nhừ, chúng tôi trở về khách sạn để dùng bữa tiệc buffet ngoài trời. Khách sạn nằm ở vùng ngoại ô cách khá xa trung tâm thành phố và phải đi lại bằng tàu thủy. Từ trên boong tàu, tôi trải rộng tầm mắt ngắm thành phố xa dần hay những căn biệt thự xinh đẹp ở bên hồ từ từ lướt qua. Thi thoảng, một bãi du thuyền đậu san sát, vài đứa trẻ đang tung tăng bơi lội trong làn nước trong xanh mát rượi. Đến khách sạn thì trời đã tối và se lạnh, nếu không, tôi đã nhảy ùm xuống hồ để bơi cho thỏa thích…


Những nhà hàng ngoài trời rất phổ biến ở thành phố này 


Những lễ hội quanh năm cũng là một trong những yếu tố thu hút du khách đến Lucerne


“Đây là nơi đẹp nhất mà chúng tôi từng nhìn thấy!”, nhà thơ người Đức, Johann Wolfgang von Goethe, đã viết trong một lá thư gửi cho bạn ông, Charlotte von Stein, trong thời gian Goethe lưu lại Bern năm 1779. Tôi đồ rằng Goethe cảm thán như thế khi nhìn Bern từ Rose Garden!


Ẩm thực cũng là một nét lôi cuốn khó cưỡng của Bern. Những món ăn từ khắp nơi trên thế giới được phục vụ cùng các món đặc sản truyền thống. Buổi tối, chúng tôi được mời đến một nhà hàng tầng hầm rượu vang tuyệt đẹp có tên Kornhauskeller, cách khách sạn và khu trung tâm chỉ vài bước chân. Ngay từ lối vào, nhìn từ trên cao xuống, nhà hàng này giống như tầng hầm của một nhà thờ. Một anh bạn trong đoàn thì bảo nó giống nhà hát thời xưa. Tranh cãi một hồi, chúng tôi quyết định hỏi anh bồi bàn và được cho biết nó chỉ là một nhà hàng đơn thuần. Phong cách Pháp ấm cúng, sang trọng và yên tĩnh cùng những món ẩm thực tuyệt vời và rượu vang tuyệt hảo, cảm giác của tôi như vừa được thưởng thức một bữa tiệc của các vị quý tộc châu Âu thời xưa!


Điểm đến cuối cùng trong chuyến hành trình khám phá Thụy Sĩ là thành phố biên giới Basel. Tôi biết đến Basel nhờ hội chợ đồng hồ lớn nhất thế giới (Baselworld) được tổ chức vào tháng 3 hàng năm và trong một lần tìm kiếm thông tin cho chuyến du lịch bụi châu Âu, được biết Basel xếp thứ 2 trong 10 thành phố nhỏ (dân số dưới 250.000) đáng sống nhất ở châu lục này.


Những chuyến xe điện chạy khắp thành phố khiến bạn dễ dàng đến bất cứ một điểm nào, miễn là có một bản đồ trong tay và nắm được hành trình của chuyến đi. Cũng giống như Bern, Basel cũng có một con sông chảy qua. Thành phố này nằm ngay đoạn uốn cong và hạ nguồn của dòng sông Rhine chảy qua nhiều nước. Du khách có thể qua lại 2 bên thành phố bằng những chiếc cầu hoặc bè trên sông. Dù phương tiện rất thuận lợi để di chuyển, nhưng cách khám phá Basel lý tưởng nhất vẫn là đi bộ. Những khu phố nhỏ, con đường quanh co trong hẻm dẫn chúng tôi đến những địa điểm thú vị và dễ thương không ngờ. Nếu mỏi chân, Quảng trường Market Square và Tòa thị chính ta có thể dừng lại, hứng nước ở bất cứ vòi nước công cộng nào để uống.


Hai địa điểm không thể bỏ qua là Nhà thờ chính tòa độc đáo ở bên sông Rhine với những bức tường đá sa thạch đỏ, mái ngói nhiều màu sắc và nổi bật với tòa tháp đôi sừng sững. Địa điểm thứ 2 là quảng trường Market Square và Tòa thị chính, nơi bạn vừa chiêm ngưỡng những kiến trúc trong tòa thị chính vừa dạo một vòng ngắm phiên chợ rau tươi, trái cây và hoa được bày bán bên ngoài, một nét văn hóa truyền thống thú vị ở đây.


Những bức tranh tường cho thấy những hoạt động nghệ thuật rất được ưa chuộng tại thành phố đa văn hóa này 

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Ba, 13 tháng 9, 2011


Ngay lúc đó bước chân vội vã của một người bộ hành đã xé nát sự yên tịnh. Người đàn ông, vừa xuống chuyến phà ở Riva degli Schiavoni, đang cuối đầu bước vội vã trên quảng trường đến nơi làm việc. Ông vừa đi khuất lại xuất hiện người quét đường, dùng cây chổi khổng lồ kỳ cọ đá hoa cương, một người đẩy chiếc xe chở đầy báo đi đến những dãy cuốn, một người gác cổng với xâu chìa khóa kêu leng keng.


Vì quyền lực của nền cộng hòa được biểu hiện bằng đá hoa cương ở đây: trong Dinh Tổng trấn, trong các dãy nhà Procuratie, trong Nhà thờ Thánh Mark – ngôi nhà thờ quốc gia mà trong đó nền cộng hòa được tôn sùng trước tiên rồi mới đến Chúa Trời kính yêu. Vị giáo trưởng của Venice phải bằng lòng với ngôi nhà thờ San Pietro di Castello khiêm nhường hơn rất nhiều. Chỉ sau khi Napoleon đâm nhát dao cuối cùng vào Cộng hòa Venice , vị giáo trưởng mới được phép dọn vào Nhà thờ Thánh Mark: Năm 1837, thời chiếm đóng của Áo, dinh tổng giám mục được xây tại Piazzetta dei Leoncini.


Người Venice không bao giờ gọi những dãy nhà ở bên trái và phải của Quảng trường Thánh Mark một cách đơn giản và chung chung là Procuratie – họ phân chia chúng ra một cách nghiêm ngặt thành cũ và mới, như thể họ vẫn chưa quen được với dãy nhà mới sau 400 năm.


Hằng triệu gót giầy đã chà nhẵn những tảng đá lát quảng trường, hằng triệu bàn tay đã lau bóng hai con sư tử trên Piazzetta dei Leoncini. Khách tham quan nghĩ gì trong khoảng khắc huyền diệu khi họ lần đầu tiên đặt chân lên quảng trường? Họ có giống như nhà văn Julien Green, người lo sợ phải phát cuồng? Hay họ cố tự cứu mình bằng cách lẫn trốn vào trong sự mỉa mai châm biếm như nhiều nhà văn khác? Goethe bàn luận về cua trên Campanile, Mark Twain so sánh nhà thờ với một con bọ cánh cứng đang đi dạo, Hemingway với một rạp chiếu bóng Hollywood.


Du khách tìm chỗ dựa ở hướng dẫn viên du lịch, người giảng giải không những về nguồn gốc Byzantine mà còn về nguồn gốc tội phạm của Nhà thờ Thánh Mark nữa: Không chỉ hài cốt của Đức Thánh Tin Lành, không đâu, cả những cây cột bằng đá hoa cương và cung vòm thạch cao tuyết hoa, tượng thánh gắn ngọc và những con ngựa bằng đồng – tất cả đều được lấy trộm! Trộm về từ Phương Đông! Do những thương gia Venice mang trộm về, những người tin rằng đó là nhiệm vụ do bề trên giao phó!


Người Áo lui tới trong quán cà phê Quadri đối diện, cái quán mà đã nhanh chóng tự hạ mình đổi tên thành Caffè Militare (Cà phê Quân đội), có thêm dòng chữ phụ bằng tiếng Đức "Kaffehaus". Khi thống đốc người Áo hạ lệnh bắn vào đám đông trên Quảng trường Thánh Mark trong cuộc nổi dậy năm 1848, những người bị thương đã được mang vào Caffè Florian. Đó là lần nổi dậy cuối cùng của Venice chống lại một thế lực chiếm đóng – với Florian là đồng minh. Người Venice yêu nó cho đến ngày nay.


Vào giờ này, nhà thờ chỉ mở cửa cho những người muốn vào để đi lễ. Và như có hẹn trước, không những du khách mà chim bồ câu cũng biến mất – giống như chúng đã qua được một ngày làm việc. Quảng trường Thánh Mark được chiếu sáng về đêm óng ánh như một nhà hát.

Xem bài viết đầy đủ

Cùng Chia Sẻ © 2013 - Nghe Đọc Truyện Online