Hiển thị các bài đăng có nhãn Lý Thánh Tông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lý Thánh Tông. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012


TPO - Chùa Keo nằm ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi.


Tương truyền, nguyên thủy chùa do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng ở ven sông Hồng từ năm 1061 dưới thời Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy, phủ Hà Thanh (nay thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định).




Ban đầu, chùa có tên là Nghiêm Quang tự, đến năm 1167 mới đổi thành Thần Quang tự. Vì Giao Thủy có tên Nôm là Keo, nên ngôi chùa này cũng được gọi là chùa Keo.


Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên to, làm ngập làng Giao Thủy, nơi có chùa. Một bộ phận dân cư dời đi nơi khác, lập thành làng Hành Thiện, xây dựng nên ngôi chùa Keo mới, thường được gọi là chùa Keo Dưới (Keo Hạ) hay chùa Keo Hành Thiện (nay ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định).


Một bộ phận dân cư dời sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình, về sau cũng dựng lên một ngôi chùa, gọi là chùa Keo Trên (Keo Thượng).


Ban đầu, chùa được xây dựng tạm trên nền đất của làng. Năm Hoằng Định thứ 13 (1612), chùa được tu sửa hoàn chỉnh và có dáng dấp như ngày nay. Trong 400 năm tiếp theo, chùa nhiều lần được tu bổ lớn như vào các năm Cảnh Trị thứ 9 (1671), Chính Hoà thứ 25 (1704), Thành Thái thứ 7 (1896) và đặc biệt từ năm 1962 chùa Keo đã được nhà nước công nhận là tích lịch sử văn hoá, nên đã được tôn tạo nhiều lần.





Được khởi công xây dựng trước, kiến trúc chùa Keo Hành Thiện có ảnh hưởng rất lớn đến chùa Keo ở Thái Bình. Phía trước chùa có hồ bán nguyệt nước trong xanh, soi bóng tháp chuông mái cong uy nghiêm, thơ mộng.


Được khởi công xây dựng trước, kiến trúc chùa Keo Hành Thiện có ảnh hưởng rất lớn đến chùa Keo ở Thái Bình. Phía trước chùa có hồ bán nguyệt nước trong xanh, soi bóng tháp chuông mái cong uy nghiêm, thơ mộng.




Tuy không có gác chuông chồng diêm 3 tầng 12 mái đồ sộ như chùa Keo Thái Bình, gác chuông chùa Keo Hành Thiện cũng là một sự kết hợp hài hòa của kiến trúc tam quan nội 5 gian, làm theo kiểu chồng diêm, cao 7m50.


Dáng vẻ thanh thoát với mái cong, bờ cánh kẻ bảy uốn lượn. Phía dưới là 8 đại trụ và 16 cột quân được đặt trên đá tảng chạm khắc hoa văn cánh hoa sen nở.



Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, trong chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ có giá trị của thế kỷ 17 thời Hậu Lê. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp nhiều chuông khánh, văn bia cổ, hoàng văn phi đối và sách chữ Hán nói về chùa Keo.


Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, trong chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ có giá trị của thế kỷ 17 thời Hậu Lê. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp nhiều chuông khánh, văn bia cổ, hoàng văn phi đối và sách chữ Hán nói về chùa Keo.


Sau chùa là đền Thánh thờ Đức Thánh Tổ Đại pháp thiền sư Không Lộ, người chữa khỏi bệnh cho vua Lý Nhân Tông.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011


Khuôn viên phía trước nhà thờ không thật sự rộng rãi, nên để lấy hết được toàn cảnh mặt tiền, các bạn đừng quên mang theo một ống kính góc rộng.Cửa ra vào và toàn bộ các cửa sổ bên trong nhà thờ đều cuốn nhọn theo nghệ thuật Gothique, kết hợp với các bức tranh mô phỏng điển tích trong Kinh Thánh bằng kính màu rất đẹp mắt và hài hòa, tạo ra nguồn ánh sáng tự nhiên kỳ ảo. Nếu bạn muốn chụp ảnh bên trong nhà thờ, nên mang theo giá đỡ (tripod) vì ánh sáng ở đây khá yếu, cần thời gian phơi sáng dài. Tránh sử dụng đèn flash, thiết lập cân bằng trắng bằng độ K hoặc preset để giữ được màu sắc trầm mặc tự nhiên.2. Hồ Gươm và khu vực phố cổCó lẽ không cần giới thiệu nhiều về hai cái tên này, bởi hồ Gươm và toàn thể khu phố cổ chính là trái tim của Thủ đô. Nơi đây cũng là địa điểm “săn ảnh” lý tưởng cho nhiều nhiếp ảnh gia bởi kho đề tài phong phú đến từ những mái nhà còn giữ lại được cho mình kiến trúc thời Pháp thuộc, nếp sống của người dân “Tràng An chính gốc” hay cảnh đẹp từ những công trình nổi tiếng như tháp Rùa, cầu Thê Húc, tháp Hòa Phong, vườn hoa Vạn Xuân, vườn hoa Con Cóc, v..v..Một góc phổ cổ Hà Nội.Một ống kính 35mm sẽ là sự lựa chọn hoàn hảo cho các tay máy theo đuổi trường phái nhiếp ảnh đời thường (still life) hay đường phố (streetlife) muốn ghi lại cuộc sống muôn màu muôn vẻ nơi đây. Ngoài ra, một ống kính tele zoom cũng sẽ hữu ích nếu bạn muốn bắt lại những hình ảnh chân thực về con người xung quanh hồ Gươm.3. Văn Miếu – Quốc Tử GiámVăn Miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội. Với những hồ Văn, Khuê Văn Các, giếng Thiên Quang, chiếc chuông và trống khổng lồ cùng hàng trăm bia tiến sĩ “ngự” trên lưng rùa đá, những tấm hình bạn chụp tại đây dưới tư cách một khách du lịch chắc chắn sẽ khiến mọi người ở nhà không khỏi thích thú và ganh tị.Khuôn viên Văn Miếu – Quốc Tử Giám khá rộng rãi, tuy vậy lượng khách du lịch thường đông, đặc biệt vào dịp cuối tuần và các ngày lễ tết, bởi vậy nên tránh các thời điểm này nếu bạn muốn chụp được những bức ảnh toàn cảnh.Bên trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám có tượng thờ ba vị vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông, thầy Chu Văn An, triết gia Khổng Tử và các học trò của ông. Với nguồn sáng yếu ớt, không gian chật hẹp, nhiều người qua lại không tiện đặt tripod và quan niệm không dùng đèn flash tại những nơi thờ cúng, có lẽ bạn nên trang bị cho mình một ống kính góc rộng với độ mở lớn để tránh rung nhòe ảnh trong khi chụp.4. Cầu Long Biên“Cong rồng thép” được người Pháp xây dựng những năm cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 có lẽ là cây cầu ghi dấu đậm nét nhất trong tâm hồn những người con Hà Nội. Trải qua hai cuộc chiến tranh với nhiều lần bị bom đạn bắn phá, cầu Long Biên đã không còn giữ được nguyên vẹn hình dáng xưa, nhưng sự cổ kính toát lên từ những thanh vịn, trục cầu kim loại hay mặt cầu bằng đá thì vẫn còn nguyên vẹn. Với đường ray xe lửa còn hoạt động ở chính giữa, làn cầu hai bên dành cho cả xe thô sơ, và những gánh hàng rong bán khoai, mía, v…v.. tại những chỗ mở rộng, cầu Long Biên là địa điểm lý tưởng để sáng tác các bức ảnh mang tính chất hoài niệm.5. Làng gốm Bát TràngCách cầu Chương Dương đúng 8km đường bộ, Bát Tràng là làng gốm nổi tiếng nhất tại Hà Nội. Dù đường sá nơi đây đã được bê tông hóa, đa số các hộ gia đình làm gốm đều chuyển sang sản xuất theo dây chuyền bằng máy, thì Bát Tràng vẫn còn đó những căn nhà nhỏ, đình, chùa mộc mạc cũ xưa. Đặc biệt hơn, nếu chịu khó cầm máy cuốc bộ len lỏi qua những con ngõ nhỏ, sẽ món quà mà các nhiếp ảnh gia nhận được sẽ là quang cảnh rộng lớn của một dải sông Hồng. Đừng tiếc tiền thuê (hoặc mượn) một chiếc lens ultrawide/fisheyes, bạn sẽ cảm nhận rõ hơn sự mênh mông của trời nước.Chợ gốm luôn là địa điểm chụp lý tưởng cho những bức hình nhiều sắc màu.Chợ gốm nhộn nhịp và những xưởng gốm phục vụ khách du lịch cũng là một đề tài lý thú cho dân chơi ảnh. Còn gì thích bằng bên cạnh những bức ảnh đẹp, các “mẫu” còn đem về cả những chiếc cốc gốm xinh xinh do chính mình tự làm tặng cho “nửa kia”?


Một góc phổ cổ Hà Nội.


Khuôn viên Văn Miếu – Quốc Tử Giám khá rộng rãi, tuy vậy lượng khách du lịch thường đông, đặc biệt vào dịp cuối tuần và các ngày lễ tết, bởi vậy nên tránh các thời điểm này nếu bạn muốn chụp được những bức ảnh toàn cảnh.Bên trong Văn Miếu – Quốc Tử Giám có tượng thờ ba vị vua Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lê Thánh Tông, thầy Chu Văn An, triết gia Khổng Tử và các học trò của ông. Với nguồn sáng yếu ớt, không gian chật hẹp, nhiều người qua lại không tiện đặt tripod và quan niệm không dùng đèn flash tại những nơi thờ cúng, có lẽ bạn nên trang bị cho mình một ống kính góc rộng với độ mở lớn để tránh rung nhòe ảnh trong khi chụp.4. Cầu Long Biên“Cong rồng thép” được người Pháp xây dựng những năm cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 có lẽ là cây cầu ghi dấu đậm nét nhất trong tâm hồn những người con Hà Nội. Trải qua hai cuộc chiến tranh với nhiều lần bị bom đạn bắn phá, cầu Long Biên đã không còn giữ được nguyên vẹn hình dáng xưa, nhưng sự cổ kính toát lên từ những thanh vịn, trục cầu kim loại hay mặt cầu bằng đá thì vẫn còn nguyên vẹn. Với đường ray xe lửa còn hoạt động ở chính giữa, làn cầu hai bên dành cho cả xe thô sơ, và những gánh hàng rong bán khoai, mía, v…v.. tại những chỗ mở rộng, cầu Long Biên là địa điểm lý tưởng để sáng tác các bức ảnh mang tính chất hoài niệm.5. Làng gốm Bát TràngCách cầu Chương Dương đúng 8km đường bộ, Bát Tràng là làng gốm nổi tiếng nhất tại Hà Nội. Dù đường sá nơi đây đã được bê tông hóa, đa số các hộ gia đình làm gốm đều chuyển sang sản xuất theo dây chuyền bằng máy, thì Bát Tràng vẫn còn đó những căn nhà nhỏ, đình, chùa mộc mạc cũ xưa. Đặc biệt hơn, nếu chịu khó cầm máy cuốc bộ len lỏi qua những con ngõ nhỏ, sẽ món quà mà các nhiếp ảnh gia nhận được sẽ là quang cảnh rộng lớn của một dải sông Hồng. Đừng tiếc tiền thuê (hoặc mượn) một chiếc lens ultrawide/fisheyes, bạn sẽ cảm nhận rõ hơn sự mênh mông của trời nước.Chợ gốm luôn là địa điểm chụp lý tưởng cho những bức hình nhiều sắc màu.Chợ gốm nhộn nhịp và những xưởng gốm phục vụ khách du lịch cũng là một đề tài lý thú cho dân chơi ảnh. Còn gì thích bằng bên cạnh những bức ảnh đẹp, các “mẫu” còn đem về cả những chiếc cốc gốm xinh xinh do chính mình tự làm tặng cho “nửa kia”?


“Cong rồng thép” được người Pháp xây dựng những năm cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20 có lẽ là cây cầu ghi dấu đậm nét nhất trong tâm hồn những người con Hà Nội. Trải qua hai cuộc chiến tranh với nhiều lần bị bom đạn bắn phá, cầu Long Biên đã không còn giữ được nguyên vẹn hình dáng xưa, nhưng sự cổ kính toát lên từ những thanh vịn, trục cầu kim loại hay mặt cầu bằng đá thì vẫn còn nguyên vẹn.Với đường ray xe lửa còn hoạt động ở chính giữa, làn cầu hai bên dành cho cả xe thô sơ, và những gánh hàng rong bán khoai, mía, v…v.. tại những chỗ mở rộng, cầu Long Biên là địa điểm lý tưởng để sáng tác các bức ảnh mang tính chất hoài niệm.5. Làng gốm Bát TràngCách cầu Chương Dương đúng 8km đường bộ, Bát Tràng là làng gốm nổi tiếng nhất tại Hà Nội. Dù đường sá nơi đây đã được bê tông hóa, đa số các hộ gia đình làm gốm đều chuyển sang sản xuất theo dây chuyền bằng máy, thì Bát Tràng vẫn còn đó những căn nhà nhỏ, đình, chùa mộc mạc cũ xưa. Đặc biệt hơn, nếu chịu khó cầm máy cuốc bộ len lỏi qua những con ngõ nhỏ, sẽ món quà mà các nhiếp ảnh gia nhận được sẽ là quang cảnh rộng lớn của một dải sông Hồng. Đừng tiếc tiền thuê (hoặc mượn) một chiếc lens ultrawide/fisheyes, bạn sẽ cảm nhận rõ hơn sự mênh mông của trời nước.Chợ gốm luôn là địa điểm chụp lý tưởng cho những bức hình nhiều sắc màu.Chợ gốm nhộn nhịp và những xưởng gốm phục vụ khách du lịch cũng là một đề tài lý thú cho dân chơi ảnh. Còn gì thích bằng bên cạnh những bức ảnh đẹp, các “mẫu” còn đem về cả những chiếc cốc gốm xinh xinh do chính mình tự làm tặng cho “nửa kia”?


Cách cầu Chương Dương đúng 8km đường bộ, Bát Tràng là làng gốm nổi tiếng nhất tại Hà Nội. Dù đường sá nơi đây đã được bê tông hóa, đa số các hộ gia đình làm gốm đều chuyển sang sản xuất theo dây chuyền bằng máy, thì Bát Tràng vẫn còn đó những căn nhà nhỏ, đình, chùa mộc mạc cũ xưa. Đặc biệt hơn, nếu chịu khó cầm máy cuốc bộ len lỏi qua những con ngõ nhỏ, sẽ món quà mà các nhiếp ảnh gia nhận được sẽ là quang cảnh rộng lớn của một dải sông Hồng. Đừng tiếc tiền thuê (hoặc mượn) một chiếc lens ultrawide/fisheyes, bạn sẽ cảm nhận rõ hơn sự mênh mông của trời nước.Chợ gốm luôn là địa điểm chụp lý tưởng cho những bức hình nhiều sắc màu.Chợ gốm nhộn nhịp và những xưởng gốm phục vụ khách du lịch cũng là một đề tài lý thú cho dân chơi ảnh. Còn gì thích bằng bên cạnh những bức ảnh đẹp, các “mẫu” còn đem về cả những chiếc cốc gốm xinh xinh do chính mình tự làm tặng cho “nửa kia”?


Chợ gốm luôn là địa điểm chụp lý tưởng cho những bức hình nhiều sắc màu

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Năm, 19 tháng 5, 2011


Tục truyền, tên gọi bánh phu thê là do sự tích vua Lý Anh Tông đi đánh trận, người vợ ở nhà thương chồng vất vả đã tự tay vào bếp làm bánh gửi ra cho chồng. Vua ăn thấy ngon, nghĩ đến tình vợ chồng đã đặt tên bánh là bánh phu thê. Cũng vì tên gọi ấy mà bánh phu thê (hay cũng còn gọi là xu xê) luôn được buộc thành cặp, biểu trưng cho sự gắn bó son sắt của tình chồng vợ.


Lại có câu chuyện khác thế này, những em nhỏ của làng Đình Bảng kể lại rằng: Theo truyền thuyết, thời Lý vào những ngày hội hè hay ngày Tết, người dân làng Đình Bảng thường dùng sản vật mình đã cấy trồng ra làm bánh Su Sê, thành tâm dâng cúng tổ tiên, rồi cùng hưởng lộc. Một lần hội làng, Lý Thánh Tông cùng vợ là Nguyên phi Ỷ Lan về quê lễ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ở Đền Đô. Tại đây, dân làng đã dâng Đức vua và Nguyên Phi đặc sản của quê hương là bánh Su Sê. Đức vua và Nguyên Phi thưởng thức món bánh này và khen ngon. Thấu suốt sự hàm chứa nhiều ý nghĩa nhân văn của loại bánh ngon, nhà vua đã truyền rằng bánh nên là một lễ vật trong ngày vui kết thành phu thê. Từ đó, bánh được gọi là bánh Phu Thê.


Bánh phu thê truyền thống được gói bằng hai thứ lá, bên trong là lớp lá dong hoặc lá chuối, bên ngoài là lớp lá dừa. Loại gạo để làm bánh phu thê phải là loại gạo nếp cái hoa vàng thơm ngon. Gạo đem vo sạch, để ráo nước và dùng cối giã chứ không được xay bằng máy. Tiếp đó, lọc lấy tinh bột gạo, bởi vậy, một cân gạo nếp cái hoa vàng thường chỉ lấy được 4 lạng tinh bột thôi. Bột lọc đó lại đem xay cho thật nhuyễn rồi phơi hoặc sấy khô để qua 15 ngày mới đem ra làm bánh, nếu làm ngay thì bánh sẽ nát. Để có được lớp vỏ bánh phu thê vàng ươm, người làm bánh thường đem hoa dành dành phơi khô, khi nào làm bánh thì ngâm vào nước sôi để chiết lấy nước màu vàng.


 Người ta cho rằng cách làm chiếc bánh phu thê cầu kì như vậy là để chứa đựng nhiều ý nghĩa ẩn bên trong. Cái cách dàn mỏng bột lên khuôn, đặt nhân vào một đầu rồi đắp phần bột còn lại lên nhân dường như thể hiện sự ôm ấp, che chở của tình nghhĩa phu thê. Không những vậy, bánh phu thê còn bao hàm trong nó triết lí ngũ hành một cách tinh tế qua năm màu của bánh: màu trắng của bột lọc và cơm dừa, màu vàng của dành dành dùng làm màu cho vỏ bánh và nhân đỗ xanh, màu đen của hạt vừng, màu xanh của lá và màu đỏ của lạt buộc. Đó là sự hòa hợp của con người với trời đất, là sự hòa hợp giữa người với người và giữa vợ với chồng. Có lẽ bởi ý nghĩa âm dương giao hòa, và mùi vị thơm ngon, ngọt ngào của chiếc bánh mà công đoạn làm ra nó cũng không hề đơn giản tẹo nào. Bánh phải được luộc bằng bếp củi, đun vừa lửa, mới giữ được vị ngon và mùi thơm của bánh. Thưởng thức bánh phu thê với nếp dẻo, đu đủ giòn, vị ngầy ngậy của đỗ xanh, vị béo của dừa, vị thơm của hạt sen, vị ngọt thanh của đường và hương thơm của dầu chuối… tất cả hòa quyện với nhau tạo nên hương vị riêng của bánh phu thê, hương vị ngọt ngào của tình nghĩa vợ chồng.


Bánh phu thê là một đặc sản được nhiều người ưa chuộng. Bánh phu thê có ở rất nhiều nơi, nhưng nổi bật nhất là làng Đình Bảng, nơi giữ được truyền thống lâu đời làm bánh phu thê. Bánh phu thê Đình Bảng chân chất mộc mạc, ngon mà mát, đẹp mà không đắt... Theo những bô lão trong làng Đình Bảng, ngày xưa, chỉ có các gia đình quý tộc, chức sắc mới có tiền mua bánh phu thê. Bánh phu thê ngày đó chỉ được dùng trong những dịp lễ quan trọng hoặc dùng để làm quà biếu sang trọng cho khách phương xa. Ngày nay, nghề làm bánh phu thê đã phổ biến hơn, và với mức sống được nâng cao, hầu như gia đình nào cũng dễ dàng chọn cho mình những cặp bánh phu thê thơm ngon, đẹp mắt.

Xem bài viết đầy đủ

Cùng Chia Sẻ © 2013 - Nghe Đọc Truyện Online