Hiển thị các bài đăng có nhãn Lý Nhân Tông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lý Nhân Tông. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013


Liên quan đến lịch sử hình thành ngôi chùa này có hai truyền thuyết. Một nói chùa có từ thời vua Lý Nhân Tông. Khi ấy nhà vua đã ngoài 40 tuổi mà chưa có con nên đi đến một ngôi chùa trên vùng Dịch Vọng ngày nay để cầu tự. Ngôi chùa nhà vua đến sau đổi tên thành chùa Thánh Chúa. Trên đường về nhà vua lại ghé thăm một ngôi chùa khác và ban tiền để sửa chùa. Ngôi chùa này chính là chùa Hà, Và do vậy mà chùa mang tên chữ là Thánh Đức tự.


 Duyên Ninh Tự


 Am Mỵ Châu


  Đền Bắc Lệ


 Đền Chử Đổng Tử.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013


Cô gái xinh đẹp này không ngại rượu tiết rắn


Rắn tươi nấu lẩu


Rắn bằm xúc bánh đa


Cháo trứng rắn


Các món rắn: 1. Rắn hầm sả, 2. Da rắn chiên giòn, 3. Chả giò rắn, 4. Rắn cuốn lá lốt


Tương truyền vào đời vua Lý Nhân Tông, có một công chúa cưng của vua thường bơi thuyền du ngoạn trên dòng Thiên Đức (sông Đuống ngày nay), rồi một hôm bị đắm thuyền chết đuối mất xác. Vua trao giải cho ai tìm thấy xác nàng.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012


TPO - Chùa Keo nằm ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi.


Tương truyền, nguyên thủy chùa do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng ở ven sông Hồng từ năm 1061 dưới thời Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy, phủ Hà Thanh (nay thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định).




Ban đầu, chùa có tên là Nghiêm Quang tự, đến năm 1167 mới đổi thành Thần Quang tự. Vì Giao Thủy có tên Nôm là Keo, nên ngôi chùa này cũng được gọi là chùa Keo.


Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên to, làm ngập làng Giao Thủy, nơi có chùa. Một bộ phận dân cư dời đi nơi khác, lập thành làng Hành Thiện, xây dựng nên ngôi chùa Keo mới, thường được gọi là chùa Keo Dưới (Keo Hạ) hay chùa Keo Hành Thiện (nay ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định).


Một bộ phận dân cư dời sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình, về sau cũng dựng lên một ngôi chùa, gọi là chùa Keo Trên (Keo Thượng).


Ban đầu, chùa được xây dựng tạm trên nền đất của làng. Năm Hoằng Định thứ 13 (1612), chùa được tu sửa hoàn chỉnh và có dáng dấp như ngày nay. Trong 400 năm tiếp theo, chùa nhiều lần được tu bổ lớn như vào các năm Cảnh Trị thứ 9 (1671), Chính Hoà thứ 25 (1704), Thành Thái thứ 7 (1896) và đặc biệt từ năm 1962 chùa Keo đã được nhà nước công nhận là tích lịch sử văn hoá, nên đã được tôn tạo nhiều lần.





Được khởi công xây dựng trước, kiến trúc chùa Keo Hành Thiện có ảnh hưởng rất lớn đến chùa Keo ở Thái Bình. Phía trước chùa có hồ bán nguyệt nước trong xanh, soi bóng tháp chuông mái cong uy nghiêm, thơ mộng.


Được khởi công xây dựng trước, kiến trúc chùa Keo Hành Thiện có ảnh hưởng rất lớn đến chùa Keo ở Thái Bình. Phía trước chùa có hồ bán nguyệt nước trong xanh, soi bóng tháp chuông mái cong uy nghiêm, thơ mộng.




Tuy không có gác chuông chồng diêm 3 tầng 12 mái đồ sộ như chùa Keo Thái Bình, gác chuông chùa Keo Hành Thiện cũng là một sự kết hợp hài hòa của kiến trúc tam quan nội 5 gian, làm theo kiểu chồng diêm, cao 7m50.


Dáng vẻ thanh thoát với mái cong, bờ cánh kẻ bảy uốn lượn. Phía dưới là 8 đại trụ và 16 cột quân được đặt trên đá tảng chạm khắc hoa văn cánh hoa sen nở.



Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, trong chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ có giá trị của thế kỷ 17 thời Hậu Lê. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp nhiều chuông khánh, văn bia cổ, hoàng văn phi đối và sách chữ Hán nói về chùa Keo.


Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, trong chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ có giá trị của thế kỷ 17 thời Hậu Lê. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp nhiều chuông khánh, văn bia cổ, hoàng văn phi đối và sách chữ Hán nói về chùa Keo.


Sau chùa là đền Thánh thờ Đức Thánh Tổ Đại pháp thiền sư Không Lộ, người chữa khỏi bệnh cho vua Lý Nhân Tông.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Hai, 23 tháng 1, 2012


Giống hầu hết những ngôi chùa khác ở Việt Nam, kết cấu và nội thất chùa Trấn Quốc có sự sắp xếp trình tự và theo nguyên tắc khắt khe của Phật giáo. Gồm nhiều lớp nhà với ba ngôi chính là Tiền đường, nhà thiêu hương và thượng điện nối thành hình chữ Công (工). Tiền đường hướng về phía Tây. Hai bên nhà thiêu hương và thượng điện là hai dãy hành lang. Sau thượng điện là gác chuông. Gác chuông chùa là một ngôi ba gian, mái chồng diêm, nằm trên trục sảnh đường chính.


Chùa Quán Sứ có lẽ là một trong rất ít ngôi chùa ở Việt Nam mà tên chùa cũng như nhiều câu đối đều được viết bằng chữ quốc ngữ. Phải chăng vì ngôi chùa được xây dựng lại vào giữa thế kỷ 20 và vì chùa đã trở thành trụ sở trung tâm của Tổng hội Phật giáo Bắc Việt, nay là của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngôi Quốc tự chung của các thiện nam tín nữ trên đất Việt. Phân viện Nghiên cứu Phật học thuộc Giáo hội và văn phòng tổ chức Phật giáo Châu Á vì hòa bình (ở Việt Nam) cũng đặt ở đây.


Chùa Láng xây dựng trên một khu đất rộng, có nhiều cây cổ thụ, từ xưa vẫn được coi là nơi đệ nhất tùng lâm của kinh đô Thăng Long. Trong chùa có nhiều đồ thờ cổ, có nhiều tượng phật, có tượng Lý Thần Tông và đặc biệt là tượng Từ Đạo Hạnh không tạc bằng gỗ đá, mà đan bằng mây và quét sơn bên ngoài. Trước đây, trong chùa còn giữ được một cuốn sách kinh bằng đồng khắc chữ, tương truyền là của vua Lý Nhân Tông dùng tụng niệm khi sinh thời.


Chùa có từ thế kỷ XVII. Theo tấm bia hiện còn trong chùa soạn ra có nêu: chùa vốn có tên là Đại Bi dựng vào năm 1631. Bảy năm sau, nhân dân góp công để mở rộng thêm khu chùa. Đến năm 1771, chúa Trịnh cho dỡ chùa Bảo Lâm ở phía tây kinh thành về tu bổ lại chùa này và đổi tên chùa là Kim Liên. Tên Kim Liên có từ đó.


Chùa Ngũ Xã là một trong số ba ngôi chùa ởHà Nội được xây dựng lại trong thập kỷ 40 và 50 bằng vật liệu mới (xi măng, sắt thép), nhưng vẫn giữ phong cách chùa cổ điển Việt Nam (hai ngôi chùa kia là chùa Quán Sứ xây dựng lại vào năm 1942 và chùa Hưng Ký xây năm 1933).

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Bảy, 12 tháng 11, 2011


Chùa Dạm (hay còn gọi là Đại Phúc Tự) thuộc xã Nam Sơn, Tp.Bắc Ninh, được khởi dựng năm 1086 dưới triều Lý. 8 năm sau ngôi chùa được hoàn thành với quy mô rộng lớn gồm: 3 cây tháp đá lớn được trạm khắc rồng tinh xảo và 12 tòa nhà (còn được gọi là Nhị thập lâu đài).



Đến thời Lê, chùa được trùng tu với quy mô trên 100 gian. Tuy nhiên, chùa đã bị hư hỏng nặng do thời gian và chiến tranh. 


Sau một thời gian thực hiện khai quật khảo cổ di tích chùa Dạm, thuộc xã Nam Sơn, Tp.Bắc Ninh, Đoàn khảo cổ đã phát hiện nhiều hiện vật, dấu tích quan trọng, phản ánh một quần thể kiến trúc đồ sộ, mang đậm phong cách kiến trúc, nghệ thuật triều Lý.


Sau một tháng khai quật khảo cổ di tích chùa Dạm, đã xuất lộ hàng trăm hiện vật quý thuộc 4 lớp kiến trúc, mỗi lớp có nhiều công trình khác nhau.


Mỗi lớp nền được kè đá 3 lớp vững chãi. Các kiến trúc tháp đá, cột đá, các trụ sỏi hay gạch, đá, gốm, sứ, sành, đất nung, ngói mũi sen... đều mang đậm kỹ thuật thời Lý. 3 cấp dưới là kiến trúc chùa. Cấp cao nhất là đền thờ Linh Nhân Hoàng thái Hậu, mẹ vua Lý Nhân Tông.


Theo TS Lê Đình Phụng - chủ trì nhóm thám sát chùa Dạm, Bắc Ninh, khi khai quật gò đất nằm đối xứng với cột đá chùa Dạm (cấp nền thứ hai), nhóm khai quật đã làm phát lộ toàn bộ móng tháp đá. Tháp đá này có bình đồ vuông 8,4x8,4m, cửa mở hướng đông.


Cũng tại hố thám sát này, khi mở rộng đã tìm thấy gạch bó nền có niên đại thời Lý.



Cũng tại hố thám sát này, khi mở rộng đã tìm thấy gạch bó nền có niên đại thời Lý.


Ngoài những dấu tích kiến trúc, nhóm thám sát khai quật cũng đã phát hiện hàng trăm hiện vật thuộc nhiều chất liệu như gạch, đá, gốm sứ, sành của nhiều thời đại khác nhau: Lý - Trần - Lê, trong số đó có những di vật như gạch, ngói mũi sen thời Lý chiếm đa số.


Cột biểu đá tượng trưng cho trời đất, sinh thực khí



Cột biểu đá tượng trưng cho trời đất, sinh thực khí

Xem bài viết đầy đủ

Cùng Chia Sẻ © 2013 - Nghe Đọc Truyện Online