Hiển thị các bài đăng có nhãn Lý Nhân. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lý Nhân. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013


Liên quan đến lịch sử hình thành ngôi chùa này có hai truyền thuyết. Một nói chùa có từ thời vua Lý Nhân Tông. Khi ấy nhà vua đã ngoài 40 tuổi mà chưa có con nên đi đến một ngôi chùa trên vùng Dịch Vọng ngày nay để cầu tự. Ngôi chùa nhà vua đến sau đổi tên thành chùa Thánh Chúa. Trên đường về nhà vua lại ghé thăm một ngôi chùa khác và ban tiền để sửa chùa. Ngôi chùa này chính là chùa Hà, Và do vậy mà chùa mang tên chữ là Thánh Đức tự.


 Duyên Ninh Tự


 Am Mỵ Châu


  Đền Bắc Lệ


 Đền Chử Đổng Tử.

Xem bài viết đầy đủ

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2013


Lễ phát lương đền Trần được tổ chức lúc 23h đêm 14 tháng Giêng (23/2) tại đền Trần Thương (Lý Nhân, Hà Nam). Tương truyền, đây là nơi được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cho đặt 6 kho lương thực để phục vụ cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai (1285). Địa điểm đền Trần Thương hiện nay là kho lương chính.


Do đó, vào dịp đầu năm người dân đều làm lễ phát lương tưởng nhớ công lao của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và lấy may mắn đầu xuân. Trong đám rước, 9 thiếu nữ mặc áo dài đỏ đội 9 mâm đựng túi lương, còn 7 thanh niên khỏe mạnh khiêng kiệu.


Các nhà sư hành lễ trước khi phát lương.


Cả nghìn quan khách tham dự buổi lễ.


Bên ngoài, hàng nghìn người xếp hàng chờ xin lộc.


Ban tổ chức cho biết, đã chuẩn bị 80.000 túi lương để phát cho người dân và du khách thập phương kéo dài từ 23h30 đêm 14 đến hết tháng Giêng. Mỗi túi lương có một số loại ngũ cốc như thóc, ngô, đậu...


Khi lễ tâm linh, mật lễ kết thúc, tại ba khu vực gồm khu nhà khách, khu miếu Thổ Thần và khu nhà tạm có 60 cụ cao tuổi trong xã phát lương cho nhân dân và du khách về dự, với niềm hy vọng một năm được no ấm, bình an. Mặc dù Ban tổ chức cho biết, việc công đức là tùy tâm song để nhận được một túi lương mỗi người thường trả 20.000 đồng


Để tránh cảnh chen lấn xô đẩy, 4 lối đi chính vào khu vực đền được lập hàng rào, mỗi chốt có hàng chục công an canh gác, chỉ mở cửa cho nhân dân vào bên trong sau 23 giờ đêm khi lễ phát lương diễn ra.


Nhiều người phấn khởi sau khi nhận được “lương” đầu năm.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013


Cô gái xinh đẹp này không ngại rượu tiết rắn


Rắn tươi nấu lẩu


Rắn bằm xúc bánh đa


Cháo trứng rắn


Các món rắn: 1. Rắn hầm sả, 2. Da rắn chiên giòn, 3. Chả giò rắn, 4. Rắn cuốn lá lốt


Tương truyền vào đời vua Lý Nhân Tông, có một công chúa cưng của vua thường bơi thuyền du ngoạn trên dòng Thiên Đức (sông Đuống ngày nay), rồi một hôm bị đắm thuyền chết đuối mất xác. Vua trao giải cho ai tìm thấy xác nàng.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013


Làng Đại Hoàng (nay là làng Nhân Hậu, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) vốn nổi tiếng bởi nghề kho cá. Tương truyền, làng Đại Hoàng thuộc vùng chiêm trũng, không có nhiều lợn, gà nên mỗi dịp cuối năm dân làng bắt đầu tát cá rồi chia cho nhau. Để ăn được lâu, người dân cho vào niêu kho ăn qua tháng giêng.



Dân làng chỉ dùng loại cá trắm đen để kho bán.


Riềng, gừng, nước cốt chanh, kẹo đắng, nước mắm ngon là những gia vị không thể thiếu. Anh Trần Khắc Phong cho biết, trước đây các cụ thường cho nước tương cua vào kho, nhưng giờ cho nước mắm ngon vào cũng không mất đi hương vị.



Điều tạo nên sự khác biệt của món cá kho Đại Hoàng là dùng niêu đất để kho. Trước khi cho cá vào kho, niêu đất được cho nước vào đun để nồi rắn chắc và khử tạp chất. Quá trình kho phải bổ sung nước cốt chanh để nồi không bị cạn.


Cá được kho bằng củi cây nhãn. Gỗ nhãn than đượm và giữ lửa lâu.


 Làng Đại Hoàng (nay là làng Nhân Hậu, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) vốn nổi tiếng bởi nghề kho cá. Tương truyền, làng Đại Hoàng thuộc vùng chiêm trũng, không có nhiều lợn, gà nên mỗi dịp cuối năm dân làng bắt đầu tát cá rồi chia cho nhau. Để ăn được lâu, người dân cho vào niêu kho ăn qua tháng giêng.Dân làng chỉ dùng loại cá trắm đen để kho bán.Họ không dùng đầu và đuôi cá mà chỉ lấy phần thân.Riềng, gừng, nước cốt chanh, kẹo đắng, nước mắm ngon là những gia vị không thể thiếu. Anh Trần Khắc Phong cho biết, trước đây các cụ thường cho nước tương cua vào kho, nhưng giờ cho nước mắm ngon vào cũng không mất đi hương vị.Điều tạo nên sự khác biệt của món cá kho Đại Hoàng là dùng niêu đất để kho. Trước khi cho cá vào kho, niêu đất được cho nước vào đun để nồi rắn chắc và khử tạp chất. Quá trình kho phải bổ sung nước cốt chanh để nồi không bị cạn.Cá được kho bằng củi cây nhãn. Gỗ nhãn than đượm và giữ lửa lâu.  Thời gian kho cá thường kéo dài âm ỉ 12-15 tiếng đến khi nước trong nồi cạn. Người đun phải đảm bảo cho ngọn lửa cháy vừa đủ.


 Làng Đại Hoàng (nay là làng Nhân Hậu, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) vốn nổi tiếng bởi nghề kho cá. Tương truyền, làng Đại Hoàng thuộc vùng chiêm trũng, không có nhiều lợn, gà nên mỗi dịp cuối năm dân làng bắt đầu tát cá rồi chia cho nhau. Để ăn được lâu, người dân cho vào niêu kho ăn qua tháng giêng.Dân làng chỉ dùng loại cá trắm đen để kho bán.Họ không dùng đầu và đuôi cá mà chỉ lấy phần thân.Riềng, gừng, nước cốt chanh, kẹo đắng, nước mắm ngon là những gia vị không thể thiếu. Anh Trần Khắc Phong cho biết, trước đây các cụ thường cho nước tương cua vào kho, nhưng giờ cho nước mắm ngon vào cũng không mất đi hương vị.Điều tạo nên sự khác biệt của món cá kho Đại Hoàng là dùng niêu đất để kho. Trước khi cho cá vào kho, niêu đất được cho nước vào đun để nồi rắn chắc và khử tạp chất. Quá trình kho phải bổ sung nước cốt chanh để nồi không bị cạn.Cá được kho bằng củi cây nhãn. Gỗ nhãn than đượm và giữ lửa lâu.  Thời gian kho cá thường kéo dài âm ỉ 12-15 tiếng đến khi nước trong nồi cạn. Người đun phải đảm bảo cho ngọn lửa cháy vừa đủ.Cá kho Đại Hoàng màu vàng sậm, thịt rắn chắc, thơm, xương mềm. Trải qua nhiều công đoạn, chế biến kỳ công nên mỗi nồi cá có giá từ 700 nghìn đến 1 triệu đồng.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Ba, 15 tháng 1, 2013


Ngôi nhà Bá Bính, nguyên mẫu nhân vật Bá Kiến trong tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao. Ảnh: Văn Định.


Toàn bộ cột, kèo trong nhà làm bằng gỗ lim nên rất vững chãi. Ảnh: Văn Định.


Lối vào ngôi nhà Chánh Bính ở xóm 11, xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.


Ngôi nhà được xây khoảng năm 1910, trải qua hơn 100 năm vẫn rất vững chắc.


Các cột gỗ...


...đến cánh cửa đều được làm bằng gỗ lim.


Trên nóc nhà có dòng chữ Nho.



Các cột kèo được chạm khắc tinh xảo.


Ngoài hiên có một hàng dãi để chống mưa nắng.


Mái nhà lợp duy nhất loại ngói ta theo kiểu bít đốc đến nay vẫn còn nguyên vẹn.


Cột lim chính giữa ngôi nhà từng bị thực dân Pháp bôi dầu đốt, nhưng được cụ Huấn và một người bạn dập tắt kịp thời.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2012


TPO - Chùa Keo nằm ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam được bảo tồn hầu như còn nguyên vẹn kiến trúc 400 năm tuổi.


Tương truyền, nguyên thủy chùa do Thiền sư Dương Không Lộ xây dựng ở ven sông Hồng từ năm 1061 dưới thời Lý Thánh Tông, tại hương Giao Thủy, phủ Hà Thanh (nay thuộc huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định).




Ban đầu, chùa có tên là Nghiêm Quang tự, đến năm 1167 mới đổi thành Thần Quang tự. Vì Giao Thủy có tên Nôm là Keo, nên ngôi chùa này cũng được gọi là chùa Keo.


Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên to, làm ngập làng Giao Thủy, nơi có chùa. Một bộ phận dân cư dời đi nơi khác, lập thành làng Hành Thiện, xây dựng nên ngôi chùa Keo mới, thường được gọi là chùa Keo Dưới (Keo Hạ) hay chùa Keo Hành Thiện (nay ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định).


Một bộ phận dân cư dời sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình, về sau cũng dựng lên một ngôi chùa, gọi là chùa Keo Trên (Keo Thượng).


Ban đầu, chùa được xây dựng tạm trên nền đất của làng. Năm Hoằng Định thứ 13 (1612), chùa được tu sửa hoàn chỉnh và có dáng dấp như ngày nay. Trong 400 năm tiếp theo, chùa nhiều lần được tu bổ lớn như vào các năm Cảnh Trị thứ 9 (1671), Chính Hoà thứ 25 (1704), Thành Thái thứ 7 (1896) và đặc biệt từ năm 1962 chùa Keo đã được nhà nước công nhận là tích lịch sử văn hoá, nên đã được tôn tạo nhiều lần.





Được khởi công xây dựng trước, kiến trúc chùa Keo Hành Thiện có ảnh hưởng rất lớn đến chùa Keo ở Thái Bình. Phía trước chùa có hồ bán nguyệt nước trong xanh, soi bóng tháp chuông mái cong uy nghiêm, thơ mộng.


Được khởi công xây dựng trước, kiến trúc chùa Keo Hành Thiện có ảnh hưởng rất lớn đến chùa Keo ở Thái Bình. Phía trước chùa có hồ bán nguyệt nước trong xanh, soi bóng tháp chuông mái cong uy nghiêm, thơ mộng.




Tuy không có gác chuông chồng diêm 3 tầng 12 mái đồ sộ như chùa Keo Thái Bình, gác chuông chùa Keo Hành Thiện cũng là một sự kết hợp hài hòa của kiến trúc tam quan nội 5 gian, làm theo kiểu chồng diêm, cao 7m50.


Dáng vẻ thanh thoát với mái cong, bờ cánh kẻ bảy uốn lượn. Phía dưới là 8 đại trụ và 16 cột quân được đặt trên đá tảng chạm khắc hoa văn cánh hoa sen nở.



Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, trong chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ có giá trị của thế kỷ 17 thời Hậu Lê. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp nhiều chuông khánh, văn bia cổ, hoàng văn phi đối và sách chữ Hán nói về chùa Keo.


Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, trong chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật cổ có giá trị của thế kỷ 17 thời Hậu Lê. Đó là những án thư, sập thờ, tượng pháp nhiều chuông khánh, văn bia cổ, hoàng văn phi đối và sách chữ Hán nói về chùa Keo.


Sau chùa là đền Thánh thờ Đức Thánh Tổ Đại pháp thiền sư Không Lộ, người chữa khỏi bệnh cho vua Lý Nhân Tông.

Xem bài viết đầy đủ

Cùng Chia Sẻ © 2013 - Nghe Đọc Truyện Online