Hiển thị các bài đăng có nhãn Lê Thánh Tông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lê Thánh Tông. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013


 Cờ Tổ quốc, cờ Đảng được treo thẳng tắp dọc xa lộ Hà Nội đoạn gần cầu Sài Gòn (Q.2), cửa ngõ vào trung tâm thành phố.



 Qua cầu Sài Gòn, dễ bắt gặp hình ảnh những lá cờ được bày bán dọc đường Điện Biên Phủ, khu vực Hàng Xanh.


Những cửa hàng trên đường Hai Bà Trưng (Q.3) treo cờ trước cửa nhà.


Hình ảnh tương tự trên đường Lê Thánh Tông (Q.1).


 Đường Lê Lợi (Q.1) ngập băng rôn.


Trong khi đó đường Lê Duẩn (Q.1) được trang trí đèn hoa.


 Khẩu hiệu kỷ niệm 38 năm thống nhất đất nước ở trước Nhà hát lớn thành phố.


Pano, áp phích kỉ niệm 2 ngày lễ 30/4 và 1/5 cũng được treo trước cửa chính chợ Bến Thành.


Triễn lãm ảnh TP.HCM 38 năm đổi mới ở khuôn viên trước Nhà hát lớn thành phố.


Ở công viên 30/4, bên cạnh cờ, hoa, áp phích sẽ là đích đến chặng cuối cuộc đua xe đạp cúp truyền hình vào ngày 30/4. Trong ảnh, các công nhân đang hoàn thiện sân khấu cho sự kiện này.


Di tích lịch sử dinh Độc Lập cũng đỏ thắm màu cờ chào đón du khách.


 Cờ được treo trước cổng khu du lịch Suối Tiên.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012


Cầu Thê Húc về đêm lộng lẫy cảnh sắc ngày Tết.Ảnh: TTXVN


Đường Lê Thánh Tông kẹt cứng người đón giao thừa. Ảnh: TTXVN


Hàng trăm nghìn người vây kín Nhà hát lớn Hà Nội. Ảnh: TTXVN


Dòng người ùn ùn kéo vào trung tâm thành phố TP HCM mừng năm mới.Ảnh: Dân trí


Thương xá Tax kín người. Ảnh: Dân trí


Đường Nguyễn Huệ cũng đông đảo người dân và du khách. Ảnh: Dân trí


Đại lộ Lê Lợi ngập tràn cánh hoa đào. Ảnh: VnExpress.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Ba, 3 tháng 7, 2012


Núi Bài Thơ là một ngọn núi đá vôi đẹp cao hơn 200m, nằm sừng sững giữa lòng thành phố. Núi có kiến tạo địa chất đặc biệt: một nửa chân núi gắn với đất liền, nửa kia ngâm trong nước biển.



Không chỉ là một thắng cảnh, núi Bài Thơ còn là di tích lịch sử và văn hóa độc đáo. Chùa Long Tiên nằm dựa vách núi là ngôi chùa nổi tiếng linh thiêng của thành phố Hạ Long. Khách du lịch nên tới đây thắp hương và tận hưởng không khí tĩnh lặng trước khi bắt đầu hành trình lên núi.


Đường mòn lên đỉnh núi tương đối trắc trở, có đoạn có bậc thang, nhưng có đoạn phải bám lấy vách đá mà đi. Ngay cả lối vào chân núi cũng khá khó tìm, chỉ là con ngõ nhỏ nằm lọt thỏm giữa những dãy nhà dân san sát.


Càng lên cao, thành phố càng khuất dần sau những vách đá vôi và dây leo chằng chịt.


Theo chân người lên núi còn có tiếng bước chân lộc cộc của những đàn dê được chăn thả tự do. Nếu may mắn, bạn có thể sẽ gặp được cả những chú khỉ đang gọi nhau chí chóe trên một vách đá nào đó.


Đỉnh núi đã hiện ra sau cả giờ đồng hồ mải miết leo bộ. Lá cờ đỏ sao vàng đã tung bay trên đỉnh cao nhất từ những năm kháng chiến chống Pháp, khi một người thợ mỏ đã dũng cảm vạch đường lên núi cắm cờ, kêu gọi tinh thần đấu tranh bất khuất của công nhân mỏ lúc bấy giờ.


Đứng hiên ngang là tấm bia đá khắc lịch sử của ngọn núi: “Từ đỉnh núi này, hàng ngàn năm trước đã là vọng gác trọng yếu vùng biên ải Đông Bắc của Tổ quốc. Đêm đêm lính canh đốt đèn báo hiệu, chỉ đường cho thuyền bè cập bến, khi có giặc thì đốt lửa báo tin về kinh đô. Dân gian gọi là núi Dọi Đèn (Truyền Đăng)”...


Một góc biển trời vịnh Hạ Long nhìn từ đỉnh núi. Năm 1468, vua Lê Thánh Tông đề thơ khắc trên vách đá, từ đó núi có tên Bài Thơ. Hiện nay ta vẫn có thể thấy những bài thơ khác của nhiều tao nhân mặc khách khi du ngoạn qua đây, trong đó có chúa Trịnh Cương.


Đứng từ đỉnh núi, bạn có thể thu vào tầm mắt toàn cảnh của thành phố, từ những con thuyền nhỏ bé trên mặt biển bên bờ khu du lịch Bãi Cháy...


... cho đến những ngôi nhà bám vào chân đảo đá đặc trưng của Hạ Long.


Từng cánh chim chao lượn trên mặt vịnh khi chiều về, tạo nên một vẻ đẹp hùng vĩ nhưng không kém phần yên bình.


Hoàng hôn nhuộm vàng một góc trời.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012


Hàng chục nghìn du khách thăm quan Vịnh Hạ Long được hướng dẫn tận tình.


Vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long quả không bút nào tả xiết...



(trích thơ vua Lê Thánh Tông)


(trích thơ của vua Lê Thánh Tông)


Ta chào ngươi, Hạ Long nghìn vạn đảo/ Vạn hòn gieo trên sóng nước trập trùng...(thơ Xuân Diệu)


Đảo xanh, đảo tía, đảo nâu/ Mênh mang, con sóng trắng phau bạt ngàn... (thơ Trần Đăng Khoa)


Biển đen màu mực ai mài/ Thoảng bay vạt nắng ban mai phớt hồng...(thơ Trần Đăng Khoa)


Mấy ngàn năm trước, đây Rồng hạ/ Để lại cho ta một Hạ Long...(thơ Phan Duy Kha)

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012


Cách đây nhiều thế kỷ, người Việt đã gọi Hạ Long là kỳ quan


Như Hoàng đế, thi sĩ Lê Thánh Tông đi tuần du An Bang (tên gọi Quảng Ninh thời đó) đã làm "Bài thơ đề vách núi”: Trăm sông triều hội biển mênh mông/ Xanh biếc trời xa núi trập trùng/ Muôn thuở trời Nam sông núi vững/Chính thời văn trị dẹp binh nhung.


Được biết, mới đây, còn có phát hiện bài thơ "Đề bão phúc nham” của nhà thơ Phạm Sư Mạnh đã gọi Vịnh Hạ Long là kỳ quan vũ trụ. Nếu đúng như vậy thì trước Nguyễn Trãi, cách đây 700 năm, Phạm Sư Mạnh là người Việt đầu tiên gọi Vịnh Hạ Long là kỳ quan.


Trong bài báo có tên "Vịnh Hạ Long xứ sở bình yên và tươi đẹp của Đông Dương”, năm 1927, tác giả Emile Cordonnier đã viết: "...Hàng ngàn đảo nhấp nhô lên trên mặt nước phô trương những phiến đá hoa cẩm thạch tuyệt đẹp, tưởng như chúng đang chồng chất lên nhau tạo ra những đường nét kì diệu, mắt ngắm mãi không biết chán. Cảnh dường như chỉ được thấy trong mơ. Những đảo đá sừng sững nổi trong lòng vịnh, dưới làn nước trong xanh mê mải của Vịnh Hạ Long. Cảnh vật nơi đây luôn tĩnh lặng, êm đềm...”


Kết quả bình chọn này được đưa ra trên cơ sở khảo sát, đánh giá của các chuyên gia du lịch, học giả, nhà báo uy tín về du lịch ở châu Á. Ông McDonald - biên tập viên, đồng thời là người sáng lập trang web du lịch châu Á travelfish.org - trên CNN cho biết: Vịnh Hạ Long là một trong những điểm đến mà du khách có thể ngao du bằng du thuyền để ngắm cảnh biển, trời ngày và đêm, tuyệt vời hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Theo McDonald, đã đến Hạ Long thì hai việc mà du khách không thể bỏ qua là "ngắm hoàng hôn huyền diệu” trên Vịnh và thăm những hang động đá vôi trên những hòn đảo lớn tại thiên đường nhiệt đới này.

Xem bài viết đầy đủ

Chủ Nhật, 25 tháng 3, 2012


Văn miếu Xích Đằng được biết đến là một di tích quan trọng nằm trong quần thể di tích Phố Hiến, thuộc phương Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Sở dĩ văn miếu có tên như vậy là do được xây dựng trên đất làng Xích Đằng và căn cứ vào khánh và chuông còn lại tại văn miếu.


Theo từ điển Địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam của Nguyễn Như Ý và Nguyễn Thành Chương ghi rõ văn miếu Xích Đằng là một trong sáu văn miếu còn tồn tại cho đến ngày nay của đất nước và văn miếu Hưng Yên cũng là một trong hai văn miếu lâu đời nhất (đứng sau văn miếu Quốc Tử Giám. Thế kỷ 17 dưới thời vua Lê Thánh Tông, để chấn hưng lại đạo Nho, triều đình đã cho thành lập nhiều trường học bên ngoài trường Quốc Tử Giám ở các trấn. Ở trấn Sơn Nam (gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình và một phần đất của Hà Nội và Hưng Yên) có văn miếu Xích Đằng ( hay còn có tên là văn miếu Sơn Nam) được xây dựng vừa làm nơi để thờ tự các bậc hiền nho, vừa là nơi tổ chức các kỳ thi của trấn.


Tam quan (hay còn gọi là cổng Nghi môn) của văn miếu Xích Đằng là một trong những công trình còn giữ được những nét kiến trúc độc đáo trong các văn miếu còn lại ở Việt Nam. Được dựng theo lối kiến trúc chồng diêm, hai tầng tám mái có lầu gác. Hai bên Tam quan có hai bục loa, dùng để xướng danh sĩ tử và thông báo những quy định trong các kỳ thi hương.


Lầu chuông của văn miếu


Cùng với tiếng chuông, tiếng khánh vang lên chính là lúc báo hiệu giờ thi đã bắt đầu và kết thúc, đồng thời nó cũng là tiếng cầu thỉnh tỏ lòng biết ơn, tri ân với những bậc hiền nho trong mỗi dịp lễ hội. Hai chiếc chuông và khánh của văn miếu cũng là những di vật cổ được đúc và tạo dựng từ thế kỷ 18.


Khu nội tự kết cấu theo kiểu chữ Tam: gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”. Mặt chính quay về hướng nam.


Khu nội tự kết cấu theo kiểu chữ Tam: gồm Tiền tế, Trung từ và Hậu cung. Hệ thống mái được kết cấu theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc”. Mặt chính quay về hướng nam.


 Bên trong khu nội tự tỏa sáng với hệ thống các đại tự, cấu đối, cửa võng và một hệ thống các trụ, kèo được sơn son thếp vàng phủ kim hoàn toàn.



Những bức hoành phi trong điện chính của văn miếu.




Hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa. Trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình.


Hiện vật quý giá nhất trong văn miếu còn lưu giữ được đến ngày nay đó chính là 9 tấm bia đá khắc tên tuổi, quê quán, chức vụ của 161 vị đỗ đại khoa ở trấn Sơn Nam thượng xưa. Trong đó có 138 vị ở Hưng Yên và 23 vị ở Thái Bình.


Từ các khoa thi đầu tiên dưới thời nhà Trần đến khoa thi cuối cùng vào cuối thời nhà Nguyễn, tỉnh Hưng Yên đều có người đỗ đạt cao. Thời nào cũng có người tài của đất Hưng Yên đỗ đạt ra giúp việc nước, việc dân. Học vị cao nhất được ghi danh ở các bia đá còn lưu lại là trạng nguyên Tống Trân, thời nhà Trần; trạng nguyên Nguyễn Kỳ, triều nhà Mạc; trạng nguyên Dương Phúc Tư, triều nhà Lê. Chức vụ cao nhất được biết đến là tiến sĩ Lê Như Hổ, quận công triều nhà Mạc…


Bàn thờ người thầy giáo lỗi lạc Chu Văn An trong văn miếu.


Trong hậu cung là bàn thờ với pho tượng của đức Khổng Tử.


Bên ngoài cổng văn miếu còn có đôi nghê đá cổ được tạc từ thế kỷ thứ 18 cùng hai cây gạo lớn đặc trưng cho trường thi.


Cứ vào ngày đầu xuân tại Văn miếu có tổ chức sinh hoạt văn hóa, đó là tổ chức tế lễ, dâng hương, triển lãm thư pháp, hát ca trù, từng bước khôi phục lại lễ hội xưa. Ngoài ra vào mùa thi, thanh thiếu niên, học sinh về văn miếu tìm hiểu truyền thống hiếu học của cha ông và thắp nhang cầu mong cho sự học hành ngày càng phát triển

Xem bài viết đầy đủ

Cùng Chia Sẻ © 2013 - Nghe Đọc Truyện Online