Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Thánh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh Thánh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 2 tháng 5, 2013


Là một danh thắng nổi tiếng nhất nhì Abu Dhabi, thánh đường Hồi giáo Sheikh Zayed là nơi tưởng niệm Sheikh Zayed bin Sultan al Nahyan, vị tổng thống đầu tiên của các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Nó chỉ mới được xây dựng sau khi ông qua đời năm 2004. Nhìn từ trên cao, có lẽ các bạn đã cảm nhận được phần nào vẻ nguy nga, tráng lệ của nó.


Là thánh đường Hồi giáo lớn nhất quốc gia, Sheikh Zayed vô cùng xa hoa khi sở hữu bốn tòa tháp canh cao hơn 105 mét ở bốn góc, mái vòm cẩm thạch trắng 82 mảnh và cái được gọi là tấm thảm thêu thủ công lớn nhất thế giới.


Trên nền sân đá cẩm thạch trắng rộng hơn 55 nghìn mét vuông là những họa tiết hoa gió vô cùng tỉ mỉ và nghệ thuật.


Người ta ước tính hơn 30 mẫu đá cẩm thạch khác nhau, chủ yếu nhập từ Trung Quốc và Ý, được dùng xuyên suốt trong ngôi thánh đường này.


Gian phòng cầu nguyện chính của thánh đường lớn đến mức có thể chứa hơn bảy nghìn tín đồ cùng một lúc. Ngoài ra, ta có thể thấy 96 cột trụ trong gian thờ này được điểm xuyết lấp lánh bằng những viên ngọc trai loại thượng hạng.


Chùm đèn pha lê trong gian phòng cầu nguyện chính, dài 10 mét và cao 15 mét, là một tuyệt tác nghệ thuật thật sự, rất phù hợp với kiến trúc nguy nga của thánh đường. Điều đó có được nhờ một sự kết hợp hài hòa và rực rỡ của thủy tinh Ý và pha lê màu Swarovsky.


Cũng trong gian thờ chính này, bức tường Qibla (hướng về phía thánh địa Mecca) viết tên 99 vị thánh trong Kinh Thánh theo lối thư pháp và được chiếu sáng liên tục suốt ngày đêm. Tấm thảm thêu tay lớn nhất thế giới phủ kín gian thờ này được đặt làm ở nước láng giềng Iran.


Trong thánh đường Sheikh Zayed, họa tiết hoa gió mềm mại và tinh tế tràn ngập khắp nơi, từ các hành lang cho đến sân vườn.


Từ cửa sổ pha lê xanh, ta có thể nhìn ra khoảng sân chính của thánh đường, nơi có thể chứa đến 22 nghìn tín đồ hành hương đổ về cùng lúc.


Nắng hoàng hôn hạ thấp trên mái vòm khổng lồ của thánh đường Sheikh Zayed, sự kết hợp kín kẽ đến hoàn hảo của 82 khối cẩm thạch trắng.


Những tín đồ đang băng ngang sân trung tâm để vào thánh đường, khi hoàng hôn buông xuống và tất cả bắt đầu lên đèn. Ánh sáng giúp cho thánh đường Sheikh Zayed càng trở nên lung linh hơn trong mắt mọi người.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012


Đầm lầy này hình thành nhờ hai con sông lớn nhất khu vực Tigris và Euphrates uốn khúc tạo nên trước khi đổ ra Vịnh Ba Tư. Đây cũng chính là hai con sông đã tạo nên nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại nổi tiếng thế giới. Vì thế, khu đầm lầy Ả Rập chính là hậu duệ hơn 5.000 năm tuổi của nền văn minh người Sumer và Babylon cổ đại.


Nơi đây là một hệ sinh thái đất ngập nước khá đặc biệt, trong tiếng Ả Rập tên là “Ma’dan’” - là nơi sinh sống của khoảng 500.000 cư dân thuộc các tộc người khác nhau trên những mô đất nổi của khu đầm lầy.


Mỗi gia đình sở hữu một hoặc vài mô đất nhỏ, họ xây nhà, trồng rau và chăn nuôi gia súc trên những mô đất ấy. Họ nuôi trâu, cừu và đánh bắt cá làm nguồn thức ăn chính.


Mọi căn nhà, cây cối đều "chìm nổi" trong nước nên phương tiện đi lại chủ yếu ở đây là những chiếc thuyền tự chế.


Điểm đặc biệt nhất của vùng đất có 1-0-2 này chính là những ngôi nhà với kiến trúc cực kì độc đáo. Đó là ngôi nhà Mudhif với những mái cong tự nhiên. Nguyên liệu để xây dựng chúng là những thứ sẵn có ở đầm lầy như: lau sậy, rơm cỏ và gạch không nung.


Mỗi ngôi nhà Mudhif thường rộng 2m, dài 6m và cao tới 3m. Để xây dựng được nhà Mudhif, người thợ khéo tay sẽ tỉ mẩn chọn những cây sậy dài khoảng 10m, đan bằng tay, chụm và buộc với nhau để liên kết thành hình mái vòm cho ngôi nhà. Sau cùng, họ đan những cây sậy nhỏ thành hình mắt lưới phủ kín căn nhà giúp nó luôn “thấm đẫm” ánh sáng và không khí trong lành từ bên ngoài.


Theo truyền thống, người dân sẽ dựng một ngôi nhà Mudhif chung - một nơi để giải quyết tranh chấp, thực hiện ngoại giao với các bộ tộc khác và cũng là điểm tập trung cho lễ kỷ niệm tôn giáo. Nói một cách khác, nó là trung tâm văn hóa - chính trị của người Ma’dan’.


Nếu nhìn từ trên cao xuống thì chắc chắn mọi người sẽ đồng tình với quan điểm của những nhà học giả khi cho rằng, đầm lầy Ả Rập này chính là nguồn cảm hứng chính cho hình ảnh vườn địa đàng trong Kinh Thánh và Kinh Koran. 


Nhiều người tin rằng, đây là nơi mà trận đại hồng thủy lớn nhất trên Trái đất xảy ra và cũng là nơi mà tổ phụ của người Ả Rập - Abraham được sinh ra. Với những tín đồ Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo hay Do Thái, khu vực này bảo tồn được rất nhiều giá trị văn hóa nguyên bản từ cổ xưa. 

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012


Để phục vụ cho lễ hội Bregenz, sau mỗi hai năm, một sân khấu mới sẽ được dựng lên từ cấu trúc đã được gắn cố định trên Hồ Constance với phòng thay đồ và chỗ dành cho Dàn nhạc Giao hưởng Vienna của Áo. Ngoài ra, nơi đây còn có khán đài ngoài trời với 7.000 chỗ ngồi phục vụ khán giả.


Sân khấu trình diễn vở André Chénier năm 2010 - 2011. Sân khấu nổi độc đáo này được dựng lên dựa theo cảm hứng từ bức tranh nổi tiếng Cái chết của Maratcủa họa sĩ Jacques-Louis David.


Vở nhạc kịch Andre Cheniercủa nhà soạn nhạc người Italia Umberto Giordano kể lại câu chuyện về một nhà thơ người Pháp bị xử tử trong cuộc cách mạng Pháp.


Khi biểu diễn, các diễn viên trong trang phục với bộ tóc giả mang phong cách của thế kỷ XVII xuất hiện từ trên đỉnh của mắt của bức tượng cao 24m.


Sân khấu năm 2009 - 2010 trình diễn vở Aida. Vở opera này được Giuseppe Verdi sáng tác tại Ai Cập (1871). Đây là câu chuyện tình đẫm lệ giữa nàng công chúa Aida ở đất nước Ethiopia bị bắt, bị bán làm nộ lệ ở Ai Cập và chàng Radames, người lính cận vệ của Pharaoh. Chàng Radames phải lựa chọn giữa tình yêu và lòng trung thành với đức vua khi chàng buộc phải lấy con gái vua là nàng Amneris.


Sân khấu năm 2007 - 2008 đã trình diễn Tosca. Đây là vở nhạc kịch 3 hồi của soạn giả nổi tiếng Giacomo Puccini được viết lời bởi Luigi Illica và Giuseppe Giacosa. Vở kịch được công chiếu lần đầu tiên vào ngày 14 tháng 1 năm 1900 tại nhà hát Teatro Costanzi, Rome. Dựa trên vở chính kịch mang tên “La Tosca” của nhà soạn kịch người Pháp Victorien Sardou, vở “Tosca”’ được đặt trong khung thời gian vùng đất Naples của Ý những năm 1800 luôn bị đe doạ bởi vì tướng tham vọng Napoléon trước khi có trận đánh ác liệt Marengo vào 3/12. Tác phẩm là sự kết hợp giữa âm nhạc làm mê đắm cả thế giới của Puccini và những thuật hoạ sống động về đòn tra tấn, ám sát và tự tử - mặt trái của chiến tranh, không những vậy, tác phẩm còn khơi nguồn cho biết bao màn trình diễn khó phai của những ca sĩ nhạc thính phòng hàng đầu.


Nội dung của bộ phim xoay quanh câu chuyện tình yêu giữa một đôi nam nữ thuộc hai nhóm đường phố là Tony và Maria. Tony thuộc nhóm Jet's và Maria thuộc nhóm Sharks. Số phận trớ trêu đã đưa tình yêu tìm đến với họ. Một ngày bạn thân của Tony(Riff) bị anh trai của Maria (Bernado) và cũng là trưởng nhóm Sharks giết chết. Từ ham muốn trả thù, Tony đã đâm chết anh ta trong một cuộc gây gổ giữa 2 nhóm. Từ đó Tony phải trốn tránh. Tony chìm trong đau khổ khi nhận được thông tin sai rằng, Maria đã bị bắn chết. Mất hết lí trí, Tony chạy ra ngoài phố và gào lên:Chico, hãy bắn tao đi (Chico là người mà Maria đã kết hôn khi còn bé). Bỗng nhiên, Tony nhìn thấy Maria. Khi hai người chạy đến bên nhau, Chico xuất hiện và bắn gục Tony. Maria vô cùng đau khổ vì cái chết của người mình yêu. Khác với Romeo and Juliet, trong bộ phim này nhân vật Maria vẫn còn sống khi kết thúc.


Sân khấu năm 2001 - 2002 trình diễn vở opera "La Boheme" của nhà soạn nhạc Giacomo Puccini. Đây được coi là chuẩn mực cho các vở opera tại Italia, viết về mối tình lãng mạn và đau khổ của nhà thơ trẻ Rudolpho và cô hàng xóm bị bệnh Mimi. Tác phẩm này cũng đã được Nhà hát Nhạc vũ kịch Việt Nam dàn dựng và công diễn ngày 27 - 28/4/2010 tại Nhà hát Lớn Hà Nội.


Sân khấu năm 1999 - 2000 trình diễn vở kịch "A Masked Ball" của Verdi. Tác phẩm được Verdi viết năm 1895, về vụ thảm sát Vua Gustavus III của Thuỵ Điển (1792).


Sân khấu dựng vở Fidelionăm 1995-1996. Vở opera xoay quanh Leonora, người phụ nữ đã cải trang thành đàn ông dưới tên gọi Fidelio để tìm cách cứu chồng. Chồng nàng là Florestan do tố cáo những việc làm phi pháp của tên tỉnh trưởng Pizarro đã bị hắn bỏ tù với âm mưu thủ tiêu. Leonora cải trang thành nam giới và xin vào làm trợ lí cho viên quản ngục Rocco để cứu chồng, nàng tìm cách đưa tin về hành động ti tiện của Pizarro cho Bộ trưởng Fernando, vốn là bạn cũ của Florestan. Được lệnh phải đào huyệt để chôn người tử tù ấy, Leonora đã gặp được chồng dưới hầm tối. Tên tỉnh trưởng xông vào đòi đâm chết Florestan nhưng Leonora đã xông ra đứng chắn trước hắn làm Pizarro ngỡ ngàng. Đúng lúc đó tiếng kèn trumpet vang lên báo hiệu viên Bộ trưởng đã tới giải cứu cho những tù nhân vô tội. Họ ùa ra quảng trường và hát bài ca vui bất tuyệt.


Sân khấu trình diễn Nabucconăm 1993 - 1994. Đây là vở nhạc kịch opera gồm 4 phần do Giuseppe Verdi viết, phần lời do Temistocle Solera, dựa trên một câu chuyện trong Kinh Thánh, kịch bản do Anicet-Bourgeois và Francis Cornu viết. Đây là vở opera thứ 3 của Verdi, được đánh giá là vở đã đặt nền móng cho danh tiếng của ông như một nhà soạn nhạc lừng danh. Nabucco kể về sự khốn khổ của người Do Thái khi họ bị vua Nabucco người Babylon tấn công và đẩy ra khỏi mảnh đất quê hương.


Sân khấu trình diễn vởDie Zauberflote (Cây sáo thần) của thiên tài Mozart năm 1985 - 1986. Đây là vở nhạc kịch cuối cùng của ông, được sáng tác và công diễn trước khi ông mất một năm. Tuy nhiên, đây lại là một trong những tác phẩm nhạc sĩ yêu thích nhất, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm được biểu diễn nhiều nhất trên thế giới trong số những sáng tác của Mozart.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Năm, 5 tháng 1, 2012


Mở màn cho danh sách này là falafel - món khai vị làm từ đậu xanh, dầu ô liu, vừng, nước chanh và tỏi rất phổ biến ở Lebanon và Isarael. Theo một số công thức cũ như trong Kinh Thánh thì để làm món này, người ta thường xay nhuyễn đậu xanh, thêm tỏi, mùi tây, rau mùi và viên lại, chiên cho đến khi giòn. Có nhiều thông tin cho rằng món ăn này bắt nguồn từ Ai Cập, trong khi đó người Isarael lại tuyên bố rằng falafel là một loại thực phẩm của người Do Thái cổ đại. Nhưng điều đó dường như không quan trọng, ở Mỹ, khi bạn dừng chân trên các vỉa hè và tìm kiếm một món ăn gì đó cho bữa trưa thì falafel lại trở thành một lựa chọn tuyệt vời.


Từ lâu, hot dog không còn là một món ăn xa lạ và vì thế việc nó xuất hiện trong top những món ăn đường phố được yêu thích tại Mỹ thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Nếu bạn sống ở Chicago, bạn sẽ được thưởng thức những chiếc hot dog với thịt bò cùng hành tây, cà chua, cần tây muối và ăn kèm cùng mù tạc. Đến với New York, bạn sẽ được thưởng thức những chiếc xúc xích cay kẹp bên trong chiếc bánh nướng nhỏ. Có rất nhiều thông tin về nguồn gốc cũng như nhiều biến thể khác nhau của hot dog trên thế giới, nhưng nó thật sự phổ biến ở Mỹ và bạn có thể dễ dàng mua được ở bất cứ đâu trên khắp các đường phố Mỹ.


Những chiếc bánh pizza được ưa chuộng ở khắp nơi trên thế giới và không ngoại lệ ở Mỹ. Câu chuyện những chiếc pizza ở Mỹ bắt nguồn từ câu chuyện về lần đầu tiên cà chua được chuyển từ châu Âu đến Nam Mỹ. Khi đó, các tầng lớp thượng lưu từ chối không ăn cà chua vì họ tin chắc rằng nó có độc. Tuy nhiên, ở thời kỳ đó, những người nông dân lại quá nghèo nên họ đã bắt đầu sử dụng cà chua rải đều trên những chiếc bánh nướng của họ. Nhiều thế kỷ sau đó, họ cho thêm húng quế tươi và pho mát mozzarella và thế là những chiếc pizza margherita cổ điển đã ra đời. Ngày nay, những chiếc pizza cùng vô vàn loại topping (các nguyên liệu được phủ lên trên như: pho mát, ngô, thịt bò, hải sản...) khác nhau đã trở thành một món ăn được ưa chuộng tại Mỹ.


Tiếp theo phải kể đến burrito – một loại bánh cuộn chứa bên trong là thịt bò, cơm hoặc đậu, hay người ta có thể đặt lên trên chiếc vỏ bánh burrito bất cứ gì từ kem chua, phô mai, bơ, thịt gà, thịt bò, thịt lợn… và cuộn tròn nó lại. Xuất phát từ Mexico, nhưng khi đến San Francisco burrito đã thật sự thay đổi. Nó đã trở thành món ăn pha trộn văn hóa ẩm thực Mexico - Mỹ vô cùng đặc biệt và cũng vì thế tính cầu kỳ của món ăn cũng được tăng lên phần nào.


Bắt nguồn từ Hy Lạp, gyros hay gyro (giros) là một món ăn gồm có thịt (thường là thịt cừu), cà chua, hành và tzatziki (một loại sốt chế biến từ yogurt trộn với dưa leo xắt nhỏ) được gói trong lòng một loại bánh bột mỏng gần giống bánh mì pita. Người ta xem gyros như một loại bánh mì kẹp thịt (sandwich). Người bản xứ ở Hy Lạp làm món gyros bằng cách đặt những tảng thịt và nướng xoay trên ngọn lửa. Thịt nướng nhanh hay chậm tùy thuộc vào việc người ta cần ăn sớm hay muộn mà gia giảm ngọn lửa và điều chỉnh khoảng cách từ thịt đến lửa cho phù hợp. Từ tảng thịt to kềnh kia, đầu bếp cắt lát từng miếng mỏng rồi đặt trên bánh để ăn chung với một ít rau và nước sốt. 


Cách chế biến gyros cũng đã có sự thay đổi khi món ăn này “đặt chân” tới Mỹ. Ở Mỹ, gyros được làm từ món thịt đã chế biến chứ thay vì một tảng thịt nguyên chất nướng như tại Hy Lạp. Người Mỹ ăn bánh mì pita với gyros và sốt tzatziki (được gọi là sốt trắng, sốt chua hay sốt dưa leo). Thật ra, món bánh mì donar kebab ở nước mình chính là một biến thể của món gyros này đó các bạn ạ!


Bánh Crêpes được bán trên dọc các vỉa hè ở Mỹ với rất nhiều loại nhân bên trong: từ pho mát, giăm bông cho đến dâu tây và kem…


Ở bất cứ một quốc gia nào cũng vậy, khi nhắc đến ẩm thực đường phố không thể bỏ quên kem – một món ăn đơn giản mà hoàn hảo. Khoảng năm 1774 là thời gian lần đầu tiên kem "đặt chân" đến với Mỹ, nó được yêu thích với những hương vị khác nhau từ chocolate, vani, và cho dù phục vụ dưới bất kỳ hình thức nào thì kem cũng là một món ăn đường phố tuyệt vời tại Mỹ. Đi dạo trên vỉa hè với chiếc kem ốc quế cầm trên tay, hương vị bạn yêu thích cùng những topping xinh yêu và cảm giác khi kem tan chảy dần trong miệng bạn mới tuyệt làm sao!


Được thưởng thức churros cùng mới một tách chocolate nóng vào những ngày lạnh thì thật không còn gì bằng.


“Nhân vật” tiếp theo kể đến trong danh sách này là kẹo bông – thứ kẹo mềm như mây và ngọt ngào đến quyễn rũ. Kẹo bông vẫn luôn nằm trong danh sách những món ăn đường phố được yêu thích nhất ở nhiều quốc gia. Cảm giác vị ngọt tan dần trong miệng và giây phút đứng ngắm nhìn người chủ hàng quay đều những “sợi bông ngọt” thật là thú vị. Đặc biệt vào những ngày lễ hội hay hội chợ thì thật khó để tưởng tượng nếu đây đó không có sự xuất hiện của những “đám mây” xanh, hồng kia và dù người lớn hay trẻ nhỏ thì cũng đều không “thoát khỏi” sự hấp dẫn của chúng.


Cuối cùng, đứng đầu trong danh sách này là món bánh pretzels mềm – loại bánh có hình như hai cánh tay đang ngoắc vào nhau - dù nó không xuất xứ ở Mỹ nhưng lại rất được ưa chuộng tại nơi đây. Theo tờ New York Times, bánh thường được rắc thêm một chút muối và thưởng thức cùng mù tạc là món ăn đường phố được yêu thích nhất tại Mỹ.

Xem bài viết đầy đủ


Mở màn cho danh sách này là falafel - món khai vị làm từ đậu xanh, dầu ô liu, vừng, nước chanh và tỏi rất phổ biến ở Lebanon và Isarael. Theo một số công thức cũ như trong Kinh Thánh thì để làm món này người ta thường xay nhuyễn đậu xanh, thêm tỏi, mùi tây, rau mùi và viên lại chiên cho đến khi giòn. Có nhiều thông tin cho rằng món ăn này bắt nguồn từ Ai Cập, trong khi đó người Isarael lại tuyên bố rằng falafel là một thực phẩm của người Do Thái cổ đại. Nhưng điều đó dường như không quan trọng, ở Mỹ, khi bạn dừng chân trên các vỉa hè và tìm kiếm một món ăn gì đó cho bữa trưa thì falafel lại trở thành một lựa chọn tuyệt vời.


Hot dog không còn là một món ăn xa lạ và vì thế việc nó xuất hiện trong top những món ăn đường phố được yêu thích tại Mỹ thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Nếu bạn sống ở Chicago, bạn sẽ được thưởng thức những chiếc hot dog với thịt bò cùng hành tây, cà chua, cần tây muối và ăn kèm cùng mù tạt. Đến với New York, bạn sẽ được thưởng thức những chiếc xúc xích cay kẹp bên trong chiếc bánh nướng nhỏ. Có rất nhiều thông tin về nguồn gốc cũng như nhiều biến thể khác nhau của hot dog trên thế giới, nhưng nó thật sự phổ biến ở Mỹ và bạn có thể dễ dàng mua được ở bất cứ đâu trên khắp các đường phố Mỹ.


Những chiếc bánh pizza đặc biệt được ưa chuộng ở khắp nơi trên thế giới và không ngoại lệ ở Mỹ. Câu chuyện từ những chiếc pizza ở Mỹ bắt nguồn từ câu chuyện về lần đầu tiên cà chua được chuyển từ châu Âu đến Nam Mỹ. Khi đó, các tầng lớp thượng lưu từ chối không ăn cà chua vì họ tin chắc rằng nó có độc. Tuy nhiên, ở thời kỳ đó, những người nông dân lại quá nghèo nên họ đã bắt đầu sử dụng cà chua rải đều trên những chiếc bánh nướng của họ. Nhiều thế kỷ sau đó, họ cho thêm húng quế tươi và pho mát mozzarella và thế là những chiếc pizza margherita cổ điển đã ra đời. Ngày nay, những chiếc pizza cùng vô vàn loại topping (các nguyên liệu được phủ lên trên như: pho mát, ngô, thịt bò, hải sản...) khác nhau đã trở thành một món ăn được ưa chuộng tại Mỹ.


Tiếp theo phải kể đến burrito – một loại bánh cuộn chứa bên trong là thịt bò, gạo hoặc đậu, hay người ta có thể đặt lên trên chiếc vỏ bánh burrito bất cứ gì từ kem chua, phô mai, bơ, thịt gà, thịt bò, thịt lợn… và cuộn tròn nó lại. Xuất phát từ Mexico, nhưng khi đến San Francisco burrito đã thật sự thay đổi. Nó đã trở thành món ăn pha trộn văn hóa ẩm thực Mexico - Mỹ vô cùng đặc biệt và cũng vì thế tính cầu kỳ của món ăn cũng được tăng lên phần nào.


Bắt nguồn từ Hy Lạp, gyros hay gyro (giros) là một món ăn gồm có thịt (thường là thịt cừu), cà chua, hành và tzatziki (một loại sốt chế biến từ yogurt trộn với dưa leo xắt nhỏ) được gói trong lòng một loại bánh bột mỏng gần giống bánh mì pita. Người ta xem gyros như một loại bánh mì kẹp thịt (sandwich). Người bản xứ ở Hy Lạp làm món gyros bằng cách đặt những tảng thịt và nướng xoay trên ngọn lửa. Thịt nướng nhanh hay chậm tùy thuộc vào việc người ta cần ăn sớm hay muộn mà gia giảm ngọn lửa và điều chỉnh khoảng cách từ thịt đến lửa cho phù hợp. Từ tảng thịt to kềnh kia, đầu bếp lát từng miếng mỏng rồi đặt trên bánh để ăn chung với một ít rau và nước sốt. 


Cách chế biến gyros cũng đã có sự thay đổi khi món ăn này “đặt chân” tới Mỹ. Ở Mỹ, gyros được làm món thịt đã chế biến chứ không phải là một tảng thịt nguyên chất nướng bởi Luật Y Tế của Mỹ cấm không được bán thức ăn “đang nướng” và ăn đến đâu cắt thịt đến đó như tại Hy Lạp. Người Mỹ ăn bánh mì pita với gyros và sốt tzatziki (được gọi là sốt trắng, sốt chua hay sốt dưa leo). Thật ra, món bánh mì donar kebab ở nước mình chính là một biến thể của món gyros này đó các bạn ạ!


Xuất xứ từ Pháp bởi đầu bếp Charpentier,  món bánh crêpes nước sốt cam đã trở thành thực phẩm được yêu thích của đông đảo người dân Pháp. Được chế biến từ các thành phần đơn giản như bột kiều mạch, trứng, bơ, sữa, loại bánh này được coi là một trong những loại thực phẩm đa năng nhất được tạo ra vào thời sơ khai của nó. Bánh Crêpes cũng rất phổ biến ở Mỹ, nó được bán trên dọc các vỉa hè ở Mỹ với rất nhiều loại nhân bên trong bánh: từ pho mát, giăm bông cho đến dâu tây và kem…


Ở bất cứ một quốc gia nào cũng vậy, khi nhắc đến ẩm thực đường phố không thể bỏ quên kem – một món ăn đơn giản mà hoàn hảo. Khoảng năm 1774 là lần đầu tiên kem được mang đến với Mỹ, nó được yêu thích với những hương vị khác nhau từ sô cô la, vani, và cho dù phục vụ dưới bất kỳ hình thức nào thì kem cũng là một món ăn đường phố tuyệt vời tại Mỹ. Đi dạo trên vỉa hè với chiếc kem ốc quế cầm trên tay, hương vị bạn yêu thích cùng những topping xinh yêu và cảm giác khi kem tan chảy dần trong miệng bạn mới tuyệt làm sao!


Được thưởng thức churros cùng mới một tách chocolate nóng vào những ngày lạnh thì thật không còn gì bằng.


Kẹo bông làm tan chảy trái tim của mọi lứa tuổi.


Bánh pretzels mềm là món ăn đường phố được yêu thích nhất tại Mỹ.

Xem bài viết đầy đủ

Cùng Chia Sẻ © 2013 - Nghe Đọc Truyện Online