Hiển thị các bài đăng có nhãn Duy Xuyên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Duy Xuyên. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013


Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Đây là tổ hợp nhiều đền đài Champa trong thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh là đồi núi. Thánh địa từng là nơi tổ chức cúng tế và là nơi tập trung các lăng mộ của các vị hoàng thân quốc thích của vương triều.


Bagan hiện tại là một thành phố nhỏ thuộc vùng Mandalay, Myanmar. Nó từng được gọi là Pagan, kinh đô của vương quốc Pagan từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13 ở miền Trung Myanmar ngày nay. Với diện tích khoảng gần 70 km2, khu vực này bao gồm hàng trăm đền chùa, tự viện. Những đền chùa này được xây dựng từ thế kỷ 11 đến 13 và đánh dấu sự khởi đầu của những truyền thống Phật giáo mới ở Myanmar.


Angkor từng là kinh đô của Khmer và đã phát triển rực rỡ từ khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ 15. Angkor có rất nhiều đền, trong đó nổi tiếng nhất là Angkor Wat và Angkor Thom. Tất các các ngôi đều có kích cỡ và hình dáng khác nhau mang đậm kiến trúc Khmer.


Công viên lịch sử này nằm cách Thủ đô Bangkok 76 km về phía bắc có diện tích 2.556 km2. Đây là tổ hợp di tích bao gồm rất nhiều đền, chùa, bảo tàng với kiến trúc độc đáo.


Vùng đặc biệt Yogyakarta là một tỉnh của Indonesia trên đảo Java và được xem là trung tâm văn hóa, nghệ thuật truyền thống Java. Nơi đây có công trình Phật giáo giữa lòng quốc gia Hồi giáo là ngôi đền Borobudur, công trình từng được công nhận là di sản thế giới năm 1991.


Chùa Shwedagon hay còn gọi là Chùa Vàng là ngôi chùa linh thiêng nhất Myanmar. Ngôi chùa nằm trên đồi Singuttara, từ đây có thể quan sát được cả thành phố Yangon.


Luang Prabang là một thành phố của Lào có lịch sử hình thành từ năm 700 sau công nguyên và từng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa. Tại đây có rất nhiều đền điện, lăng mộ cổ với kiến trúc độc đáo. Hai lăng mộ tuyệt đẹp nhất là Wat Xiengthong và Wat May. Ngôi chùa nổi tiếng bậc nhất ở đây là Wat Visounarath và nhiều địa danh nổi tiếng khác.


Chiang Mai là thành phố thuộc tỉnh Chiang Mai của Thái Lan. Đây là nơi tập hợp rất nhiều đền chùa với kiến trúc độc đáo và thu hút rất nhiều khách du lịch tới thăm quan. Một số đền ngôi chùa nổi tiếng ở thành phố này như Wat Chiang Mai, Wat Chang Lom, Wat Phra Singh, Wat Suan Dok... Nổi bật trong số đó là chùa Doi Suthep.


Ubud là một thị trấn trên đảo Bali ở Indonesia. Nơi đây hàng năm đón rất nhiều du khách từ nhiều nơi trên thế giới đến thăm quan. Các địa danh đền chùa nổi tiếng tại đây là cung điện Ubud, ngôi đền Pura Desa Ubud tiến hành các nghi lễ của người theo đạo Hindu, Pura Marajan Agung với cổng vào tráng lệ, đền Pura Tamna Saraswati kiến trúc độc đáo…


Kek Lok Si Temple là một ngôi đền thờ Phật ở Air Itam, Penang, Malaysia. Ngôi đền này lớn nhất Đông Nam Á.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013


Các loại hình hiện vật gồm tranh, tượng Phật, vật liệu kiến trúc chùa tháp, đồ thờ cúng, bia ký... được chia nhóm theo lịch đại: nhóm thời Lý - Trần, nhóm thời Lê sơ - Mạc, nhóm thời Lê trung hưng - Tây Sơn và nhóm thời Nguyễn. Đặc biệt, trong số hiện vật đưa ra trưng bày có chiếc trống đồng Cảnh Thịnh (1800) là một trong 11 bảo vật quốc gia vừa được công nhận. Một số hiện vật khác cũng rất đáng chú ý là đầu tượng Phật Đồng Dương, tượng Phật thuộc văn hóa Óc Eo, trang trí kiến trúc chùa Phật tích.


 Gần 200 tài liệu, hiện vật được trưng bày trong chuyên đề Di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia, 25 Tông Đản, Hà Nội.



 Các hiện vật được chia thành 5 thời kỳ lịch sử, gồm: Giai đoạn 10 thế kỷ đầu Công nguyên, thời Lý - Trần, thời Lê sơ - Mạc, thời Lê Trung Hưng - Tây Sơn và thời Nguyễn. Các hiện vật giúp du khách có những hiểu biết khái quát về nguồn gốc du nhập và lịch sử phát triển của Phật giáo Việt Nam.


 Tượng Phật Thích ca nhập niết bàn được làm bằng chất liệu gỗ sơn son thiếp vàng thời Lê Trung Hưng thế kỷ 17-18, được lưu giữ tại chùa Chèm, Từ Liêm, Hà Nội.


 Chuông đồng thời Trần thế kỷ 13-14, được lưu giữ tại chùa Vân Bản, Đồ Sơn, Hải Phòng.


 Mô hình tháp thờ Phật (phải) và gạch trang trí hình tháp được làm bằng đất nung có từ thời Đinh - Tiền Lê thế kỷ 10-11.


 Trống đồng Cảnh Thịnh, thời Tây Sơn năm 1800 lưu giữ tại chùa Nành, Ninh Hiệp, Hà Nội - bảo vật quốc gia Việt Nam.


 Khánh được làm bằng đồng thời Nguyễn, thế kỷ 19 lưu giữ tại chùa Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội. Khánh là một trong những loại nhạc khí.


 Những hình tượng phật giáo này giúp chúng ta nhìn thấy được bản sắc dân tộc, về một nền văn hóa Việt Nam. Nền văn hóa ấy có sự đối sánh với văn hóa Chămpa, Chân Lạp… qua đó, thấy được nghệ thuật của Việt Nam có tính chất hướng nội. Và sự hướng nội ấy đã nói lên tinh thần của người Việt Nam là đầm ấm, đoàn kết, thương yêu.


 Tượng phật Adiđà được làm bằng gỗ sơn son thếp vàng, có từ thời Nguyễn thế kỷ 19.


 Kéo dài đến hết tháng 8/2013, phòng trưng bày “Di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam” giúp công chúng tham quan hiểu thêm về những giá trị của văn hóa Phật giáo Việt Nam, qua đó góp phần bảo tồn, phát huy và tôn vinh văn hóa dân tộc.


 Đầu tượng Bồ Tát được làm bằng đá cát có từ thời văn hóa Chăm Pa thế kỷ 10, được lưu giữ tại Trà Kiệu, Duy Xuyên, Quảng Nam.


 Tượng thiên thần kinnarl được làm bằng đá cát có từ thời Lý năm 1066, được lưu giữ tại chùa Phật Tích, Bắc Ninh.


 Tượng khỉ được làm bằng đá cát, có từ Thời Lý thế kỷ 12, được lưu giữ tại Ý Yên, Nam Định.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Ba, 6 tháng 11, 2012


Làng lụa Duy Xuyên được tái hiện tại số 28 đường Nguyễn Tất Thành, thành phố Hội An (Quảng Nam) nhằm quảng bá đến du khách hình ảnh của thu nhỏ của một thương cảng lớn hơn 300 năm trước, nơi đã góp công lớn tạo con đường tơ lụa của Việt Nam trên biển.



Nghề dệt lụa vốn nức danh là thế nhưng cũng trải qua bao thăng trầm. Có những giai đoạn làng lụa rơi vào quên lãng bởi không tìm được nguyên liệu, không bán được sản phẩm, thu nhập của nghệ nhân quá èo uột... Nhưng hiện nay, khi kết hợp với du lịch, những nghệ nhân tâm huyết với nghề hi vọng sẽ duy trì được làng lụa trứ danh.


Nguyên liệu dệt lụa rất đặc biệt, với cây dâu Đa của người Chăm Pa cổ tìm từ vùng núi cao của Quảng Nam về trồng trong vườn của làng để làm thức ăn cho tằm vàng nhả kén.


Đây là nguồn nguyên liệu hiện chỉ có ở làng lụa này, không trùng lặp với nguyên liệu được nhập về từ Trung Quốc.


Khi quay tơ từ kén vàng (tằm thuần chủng), nước trong nồi được pha 80 độ C để tằm nhả kén đều, mịn.


Hiện, làng lụa có khoảng 10 nghệ nhân vừa dệt vải, vừa giới thiệu với du khách về cách làm lụa và đặc biệt là nét riêng, độc đáo về nguyên liệu chỉ có ở Hội An.


Cách dệt lụa Chăm Pa với những khung dệt cổ được sưu tầm từ nhiều địa phương cũng được tái hiện để tạo ra những tấm lụa nuột nà, thể hiện sự giao thoa văn hóa Chăm pa - Việt trong lòng xứ Quảng.


Sau vài tháng đưa vào thử nghiệm, làng lụa thường xuyên đón những du khách nước ngoài đến tham quan. Nhiều người thích thú khi được cùng trải nghiệm quay tơ, chăm tằm... cùng nghệ nhân.


Không đơn thuần là sản xuất lụa, các nghệ nhân cũng làm ra những sản phẩm thêu, dệt khăn... để bán cho khách, giúp khách lưu lại những kỷ niệm khi ghé làng lụa.

Xem bài viết đầy đủ

Thứ Tư, 17 tháng 10, 2012


Sổ trực ban “Chiến dịch Hồ Chí Minh”, chép tay tình hình chiến sự từ ngày 25/4 đến ngày 1/5/1975, hiện lưu giữ tại Bảo tàng Quân khu 7 (TP Hồ Chí Minh) - một trong 30 Bảo vật Quốc gia (đợt I) được công nhận.


Đài thờ Trà Kiệu: được phát hiện ở tháp chính kinh đô Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên (tỉnh Quảng Nam) vào năm 1918, là một kiệt tác của nghệ thuật điêu khắc Chăm Pa có niên đại từ thế kỷ VII – X. Đài được làm bằng sa thạch, cao 176 cm, gồm hai phần: phần trên là bộ Linga – Yoni, phần dưới gồm một thớt tròn và một khối hình vuông. Bốn mặt của Đài thờ khắc họa những cảnh trong trường ca Ramayana. Tuy nhiên cách trang trí những bầu vú liên tục chung quanh đài thờ gây ấn tượng về một phong cách chứa đựng nhiều yếu tố mang đậm nét riêng của người Chăm.


Tượng Bồ tát Tara: là tượng đồng lớn nhất của nghệ thuật Chăm. Tượng cao 1,14 m, niên đại cuối thế kỷ 9 đầu thế kỷ 10, được phát hiện vào năm 1978 ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Tượng được khắc họa trong tư thế đứng thẳng, hai tay đưa ra phía trước với những đường nét chạm khắc tinh tế thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật truyền thống Chămpa.


Đài thờ Mỹ Sơn E1.


Đài thờ Mỹ Sơn E1 được tìm thấy ở tháp E1 thuộc Khu di tích Mỹ Sơn, huyện Duy Xuyên (Quảng Nam); có niên đại từ thế kỷ VII – VIII, được làm bằng sa thạch màu vàng nhạt và được lắp ghép từ nhiều khuôn hình, phản ánh đời sống của các tu sĩ Bàlamôn Giá trị của đài thờ là ở sự điêu khắc, chạm nổi trên khuôn hình. Nó đại diện cho phong cách mở đầu của điêu khắc Chămpa.


Tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay nổi tiếng được tạc năm 1656. Tượng cao 3,7 m, ngang 2,1 m, dày 1,15 m. Cánh tay xa nhất có chiều dài là 200 cm. Tượng có 11 đầu, 42 tay lớn và 952 tay dài ngắn khác nhau. Tính từ đài sen lên, tượng cao 235 cm. Đầu rồng đội tòa sen cao 30 cm, bệ tượng cao 54 cm. Đây được coi là một kiệt tác "độc nhất, vô nhị" về tượng Phật và nghệ thuật tạc tượng - nghệ thuật làm nổi bật triết lý nhà Phật bằng thứ ngôn ngữ tạo hình hàm súc.


Bộ Cửu đỉnh (thời Nguyễn) gồm chín cái đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế miếu trong Hoàng thành Huế. Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào mùa Đông năm 1835 và khánh thành ngày 1/3/1837. Mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một thụy hiệu của mỗi vị hoàng đế triều Nguyễn. Trên mỗi đỉnh có chạm khắc 17 bức họa tiết và 1 bức họa thư, gồm các chủ đề về vũ trụ, núi sông, chim thú, sản vật, vũ khí,... tập hợp thành bức tranh toàn cảnh của đất nước Việt Nam thống nhất thời nhà Nguyễn.



Cây đèn đồng hình người quỳ: được tìm thấy năm 1935, trong một ngôi mộ cổ ở Lạch Trường (Thanh Hóa). Đèn cao 40 cm, dài 30 cm, rộng 27 cm, nặng 1,9 kg, là một hiện vật độc bản, đại diện cho nghệ thuật cổ tiêu biểu, độc đáo vào cuối thời kỳ văn hóa Đông Sơn, có sự giao lưu với văn hóa Hán. Cây đèn thể hiện kỹ thuật đúc tài giỏi, khéo léo và phản ánh cảm quan về vũ trụ của cư dân cổ giai đoạn này.


Pháo phòng không 37mm do Liên Xô sản xuất, trang bị cho Khẩu đội 3, Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367, tham gia Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, được Anh hùng Tô Vĩnh Diện hy sinh thân mình để bảo vệ. Khẩu pháo này cùng với Đại đội 827 bắn hạ 3 máy bay Pháp tại Điện Biên Phủ.


Máy bay Mig 21 F96, số hiệu 5121, máy bay chiến đấu của Không quân nhân dân Việt Nam trong trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12/1972.


Xe tăng T59, số hiệu 390, tham gia chiến đấu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, tiến vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975.


Xe tăng T54B, số hiệu 843, tham gia chiến đấu trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, tiến vào Dinh Độc Lập trưa ngày 30/4/1975.


Thạp đồng Đào Thịnh, một trong những đồ đựng của cư dân Đông Sơn, còn được dùng trong nghi lễ tôn giáo, mai táng, là di vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn. Thạp đồng Đào Thịnh được phát hiện vào năm 1961 tại xã Đào Thịnh, huyện Trấn Yên (tỉnh Yên Bái).


Trống đồng Ngọc Lũ: đường kính mặt 79,3 cm, đường kính chân 80 cm, cao 63 cm, niên đại cách ngày nay khoảng 2.500-2.000 năm. Trống có kích thước lớn, gồm các phần: mặt, tang, thân và chân trống. Giữa mặt trống đúc nổi ngôi sao 14 cánh, từ tâm ra có 16 vành hoa văn; tang trống phình trang trí hoa văn hình thuyền, người, chim; thân trống hình trụ đứng, chân trống hình nón cụt hơi choãi. Đây là loại trống to nhất, có hoa văn phong phú và điển hình nhất trong hệ thống trống đồng Việt Nam, là hiện vật tiêu biểu nhất của nền văn hóa Đông Sơn.


Trống đồng Hoàng Hạ: được phát hiện tháng 3/1937 tại thôn Nội, xã Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Trống có đường kính mặt 79 cm, cao 61,5 cm; tâm trống là hình mặt trời 16 tia với a vành hoa văn hiện thực; tang trống có 6 hình thuyền với hình người hóa trang ngồi trên thuyền; lưng trống trang trí các khung hoa văn hình người múa; chân trống không có hoa văn. Trống có đôi quai kép trang trí vặn thừng tết giữa tang và lưng trống. Đây là chiếc trống được xếp vào nhóm trống lớn nhất trong trống Đông Sơn, tiêu biểu cho nền văn hóa Đông Sơn.


Tượng đồng hai người cõng nhau thổi khèn: là bức tượng đồng thời văn hóa Đông Sơn. Tượng miêu tả hai người đầu chít khăn, y phục giản đơn; khuyên tai nổi rõ; mắt và miệng được diễn tả đến từng chi tiết nhỏ. Người cõng dáng khom đang nhún nhảy đôi chân theo tiếng khèn, hai tay ôm vòng lấy người ngồi trên lưng. Người được cõng ngồi vững chãi trên lưng đang say sưa thổi khèn. Cả nhạc công và vũ công như hòa nhập thành một thực thể thống nhất ăn ý, hài hòa. Bức tượng này được đánh giá là sinh động nhất trong những khối tượng đã được phát hiện từ xưa đến nay.


Trống đồng Cảnh Thịnh: được đúc bằng phương pháp khuôn sáp mô phỏng theo kiểu trống bịt da hiện đại, là di vật quý hiếm của triều đại Quang Trung (thời đại Tây Sơn 1789-1802), được đúc vào tháng 4 năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Thịnh đời Nguyễn Quang Toản (1800). Thân và chân trống liền nhau trang trí nhiều loại hoa văn. Hoa văn trên thân trống chia thành 3 đoạn. Mặt và tang trống liền nhau ở giữa có 2 vòng tròn, xung quanh là mặt phẳng, không có hoa văn trang trí. Trống còn có giá trị đặc biệt ở phần tư liệu, với một bài minh dài 272 chữ được khắc trên thân trống.


Bình gốm hoa lam vẽ Thiên Nga (Thời Lê sơ): Kiệt tác bình gốm hoa lam vẽ thiên nga tìm thấy trên con tàu đắm ở Cù Lao Chàm được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá cao. Bình có kiểu dáng lạ, những hình ảnh trang trí mang yếu tố thuần Việt. Men trên bình gốm là loại men Lam Hồi, có màu xanh mực Cửu Long, được nghệ nhân sử dụng phổ biến cho lối vẽ công bút.


Cuốn “Đường Kách mệnh”, tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: xuất bản năm 1927, gồm 70 trang in. Với lối viết mộc mạc, cuốn sách của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ( tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đó ) giới thiệu tổng quan về khái niệm cách mạng; lịch sử cách mạng Mỹ, Pháp, Nga và có ảnh hưởng thế nào tới cách mạng Việt Nam; Quốc tế cộng sản hình thành và phát triển như thế nào; các tổ chức cách mạng trên thế giới; Phụ nữ quốc tế; công nhân quốc tế; Cộng sản thanh niên quốc tế, Quốc tế giúp đỡ, Quốc tế cứu đỏ; cách tổ chức công hội; tổ chức dân cày; Hợp tác xã.


Bản thảo “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (Bản viết tay của Chủ tịch Hồ Chí Minh) do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn ngày 19/12/1946, tại nhà ông Nguyễn Văn Dương, làng Vạn Phúc, Hà Đông (Hà Nội). Bản thảo được viết trên hai trang giấy một mặt, kích thước 13,5 cm x 20,5 cm.


Ấn đồng “Môn Hạ Sảnh ấn” (Thời Trần): Được coi là ấn đồng cổ có niên đại rõ ràng nhất. Ấn bằng đồng, núm được làm theo hình bia đá, cao 8 cm. Phần đế ấn là 7,3 cm, núm cầm trên rộng 3,7 cm và dày 1,2 cm. Mặt dấu hình vuông khắc 4 chữ Triện. Ấn được đúc năm Long khánh thứ 5 đời Trần Duệ Tông (1377) và được dùng đóng trên những văn bản hành chính quan trọng từ thời Trần Phế Đế về sau.

Xem bài viết đầy đủ

Cùng Chia Sẻ © 2013 - Nghe Đọc Truyện Online